Việt
Nam đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực cho mục tiêu giảm phát
thải ròng bằng “0” tại COP26, vì vậy năng lượng có vai trò đặc biệt quan
trọng trong quá trình thực hiện những cam kết quốc tế của Việt Nam về
biến đổi khí hậu. Cùng với những giải pháp về phát triển năng lượng tái
tạo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển nguồn điện có
phát thải carbon thấp…hydro xanh và những dẫn xuất của hydro xanh đang
được thế giới quan tâm và kỳ vọng là giải pháp có vị trí ngày càng quan
trọng trong lộ trình chuyển dịch năng lượng do những đặc tính ưu việt về
giảm phát thải các khí ô nhiễm và CO2 trong vòng đời sản phẩm, dù là
nhiên liệu của quá trình chuyển hóa năng lượng hay là nguyên liệu đầu
vào của những ngành sản xuất công nghiệp.
Theo
tính toán của Viện Năng lượng (Bộ Công Thương), nhu cầu sử dụng hydro
xanh cho các ngành sản xuất của Việt Nam là rất lớn. Ước tính, ngành
thép sẽ cần 9,5 triệu tấn hydro xanh vào 2050, ngành xi măng là 1,8
triệu tấn, ngành lọc hóa dầu là 179.000 tấn. Sản xuất điện cũng có nhu
cầu hơn 19,5 triệu tấn vào 2050. Dự kiến, tổng lượng giảm phát thải CO2
khi sử dụng hydro xanh ở các kịch bản năm 2030 sẽ giảm khoảng 3,9 triệu
tấn CO2 tương ứng 0,6% so với phát thải cơ sở. Năm 2050 giảm khoảng
363,8 triệu tấn CO2 tương ứng 30,1% so với phát thải cơ sở.
Nghiên
cứu của Viện Năng lượng cho thấy, sử dụng hydro xanh có thể giảm 3,9
triệu tấn CO2 vào 2030 và nâng lên 363,8 triệu tấn CO2 vào 2050, do đó
cần đẩy nhanh quá trình sản xuất loại năng lượng này ở Việt Nam. Tuy
nhiên, sản xuất và sử dụng hydro xanh là một lĩnh vực mới đối với Việt
Nam. Viện Năng lượng cũng nhận định, Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ là vùng
được đánh có nhiều tiềm năng nhất để sản xuất loại năng lượng này, bởi
đây là 2 vùng có thuận lợi về đất đai, nguồn nước và thuận tiện khi xuất
nhập khẩu hydro xanh.
Đặc
biệt các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ có tiềm năng lớn về điện mặt
trời và điện gió, các chính sách phát triển năng lượng tái tạo và giá
điện FiT đã thúc đẩy phát triển mạnh các dự án điện mặt trời và điện gió
các năm qua, đặc biệt ở hai vùng này. Hai vùng này là nơi tập trung các
cơ sở sản xuất công nghiệp trọng điểm như lọc hóa dầu, sản xuất điện,
hóa chất, phân bón… Đây là nơi tiêu thụ sản phẩm hydro xanh tiềm năng.
Do đó, có sự thuận lợi trong việc sản xuất, vận chuyển và sử dụng hydro
xanh nhờ ưu điểm về khoảng cách, cơ sở hạ tầng vận chuyển, phân phối,
lưu chứa…
Nhằm
giúp các nhà đầu tư, chuyên gia nắm được những thực tế của Việt Nam từ
đó đưa ra những khuyến nghị, Viện Năng lượng đã tiến hành Dự án đánh giá
tổng thể hydro xanh từ năng lượng mặt trời và năng lượng gió của Việt
Nam. Báo cáo đánh giá đã đưa ra ba kịch bản sản xuất hydro xanh từ các
nguồn năng lượng tái tạo. Báo cáo đã đánh giá năng lực sản xuất tiềm
năng và chi phí bình quân cho hydro quy dẫn (LCOH). Báo cáo cũng đưa ra
phân tích kinh tế và thống kê dựa trên dữ liệu mới nhất về dự báo điện
trong nước và điện tái tạo, ước tính nhu cầu hydro và amoniac xanh tại
thời điểm hiện tại và tương lai, cũng như các cuộc thảo luận về chính
sách quốc gia và khung pháp lý cần thiết để phát triển hydro xanh.
Hydro
xanh được tạo ra từ quá trình điện phân nước và được xem là một trong
những giải pháp quan trọng của quá trình chuyển dịch năng lượng (Ảnh
minh họa).
Thời
gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách để tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển năng lượng hydro. Cụ thể đó là: Nghị quyết số
55/NQ-TW ngày 10/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược Phát
triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2050 đã đề cập đến phát
triển hydro. Theo Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn
2021-2030, tầm nhìn 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết
định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 thì “phát triển nhiên liệu khí
hydro” là một trong những giải pháp, nhiệm vụ quan trọng để thực hiện
các mục tiêu của Chiến lược.
Quyết
định số 38/2020/QĐ-TTg ngày 30/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa
công nghệ năng lượng hydrogen vào danh mục công nghệ cao được ưu tiên
đầu tư phát triển. Đây là cơ sở để các dự án, doanh nghiệp đầu tư trong
lĩnh vực này được hưởng chính sách ưu đãi theo pháp luật về công nghệ
cao. Phát triển công nghệ hydro còn là một trong những nội dung trọng
tâm của Chương trình khoa học và công nghệ (KH&CN) trọng điểm cấp
quốc gia về năng lượng (KC.05/21-30).
Với
mục tiêu trung hòa các bon vào năm 2050, năm 2022, Việt Nam cũng đã ký
kết tham gia Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP). Quy hoạch
phát triển điện lực quốc gia và quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định phát triển “hydro
xanh” là giải pháp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong các kịch bản
chuyển dịch năng lượng mà còn có thể hướng tới xuất khẩu sang các nước
trong khu vực.
Xem
xét những thách thức, khó khăn đó trong bối cảnh của Việt Nam, mặc dù
một số cơ, chính sách ưu đãi cho phát triển lĩnh vực năng lượng sạch,
trong đó có hydro đã được ban hành, tuy nhiên, khi triển khai vào thực
tiễn còn gặp nhiều thách thức. Theo đánh giá của các chuyên gia tại Viện
Năng lượng thì khung pháp lý hỗ trợ phát triển “hydro xanh” để tham gia
vào quá trình chuyển đổi năng lượng chưa được hình thành, bao gồm: khử
cacbon trong các quá trình sản xuất công nghiệp, lưu trữ năng lượng, vận
chuyển năng lượng, pin nhiên liệu... cũng như giải quyết các nút thắt
của chuỗi cung ứng (ví dụ: giá điện từ năng lượng tái tạo).
Việt
Nam đang ở xuất phát điểm của giai đoạn đầu trên lộ trình phát triển
ngành công nghiệp năng lượng hydro nên nhiều điều kiện về cơ sở hạ tầng,
nguồn nhân lực, công nghệ… cho việc phát triển “hydro xanh” chưa đảm
bảo cả về số lượng và chất lượng. Nguồn lực đầu tư cho các hoạt động
KH&CN trong ngành năng lượng nói chung và hoạt động R&D về công
nghệ nói riêng liên quan đến phát triển hydro của Việt Nam còn rất hạn
chế so với nhu cầu thực tiễn. Trong khi đó, mô hình quản lý còn thiếu sự
chia sẻ, liên thông giữa các cơ quan, doanh nghiệp và tổ chức
KH&CN, các tiêu chí lựa chọn định hướng trọng tâm, nhiệm vụ
KH&CN trọng điểm để đầu tư trong lĩnh vực “hydro xanh” còn chưa được
nghiên cứu khoa học, khách quan.
Theo
các chuyên gia tại Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) với vai trò vừa
định hướng, dẫn dắt quá trình phát triển trong dài hạn vừa hỗ trợ thực
thi mục tiêu phát triển trong ngắn và trung hạn, hoạt động KH&CN
liên quan đến “hydro xanh” cần có những chính sách phù hợp và triển khai
hiệu quả để giải quyết những thách thức và khó khăn. Để thúc đẩy phát
triển lĩnh vực này, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp đồng bộ: Đẩy
mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ phục vụ phát
triển lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là các dạng năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo. Hướng đến những mục tiêu, thực thi cam kết về biến đổi
khí hậu và môi trường, quá trình chuyển dịch năng lượng được thúc đẩy
bởi hai yếu tố là cơ chế, chính sách và công nghệ, trong đó cơ chế,
chính sách có vai trò dẫn dắt và chủ đạo.
Trên
cơ sở những kết quả nghiên cứu toàn diện ban đầu về cơ chế, chính sách,
cần ưu tiên lựa chọn một số lĩnh vực phát triển “hydro xanh” để hướng
đến những mục tiêu cụ thể, cũng như tổng quát. Các lĩnh vực được lựa
chọn cần được đánh giá tổng thể trên cơ sở những kinh nghiệm quốc tế,
điều kiện kinh tế - xã hội, tự nhiên của Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện
hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ
thống hạ tầng lưu trữ, đường ống vận chuyển khí đốt… đảm bảo các công
trình hạ tầng hiện có cũng như xây mới đáp ứng sự sẵn sàng cho phát
triển “hydro xanh” trong tương lai.
Bên
cạnh đó, tập trung các nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng về
công nghệ “hydro xanh” trong các ngành điện, hóa chất và giao thông vận
tải Hoàn thiện khung pháp lý (tiêu chuẩn kỹ thuật, hoạt động chứng
nhận…), hệ thống hạ tầng đảm bảo sẵn sàng cho việc xuất khẩu “hydro
xanh” sang các thị trường mà Việt Nam có lợi thế trong khu vực như Nhật
Bản, Hàn Quốc...
Đức Bình
Nguồn:https://thiennhienmoitruong.vn/phat-trien-hydro-xanh-trong-lo-trinh-chuyen-dich-nang-luong.html