Dưới đây là 4 công nghệ sản xuất hydro phổ biến nhất hiện nay do Bộ Năng
lượng Hoa Kỳ (DOE) cập nhật. Ngoài ra, còn có một số công nghệ hiện
đang được phát triển như: Tách nước nhiệt hóa học, tách nước bằng quang
sinh học và tách nước quang điện hóa... Tổng hợp của chuyên gia Tạp chí
Năng lượng Việt Nam.
Mặc dù có nhiều trên trái đất dưới dạng một nguyên tố, nhưng hydro
hầu như luôn được tìm thấy dưới dạng một phần của hợp chất khác, chẳng
hạn như nước (H2O), hoặc metan (CH4) và nó phải được tách thành hydro
tinh khiết (H2) để sử dụng như dùng cho xe điện chạy bằng pin nhiên
liệu. Nhiên liệu hydro kết hợp với oxy từ không khí thông qua pin nhiên
liệu tạo ra điện và nước qua quá trình điện hóa. Hydro có thể được sản
xuất từ các nguồn tài nguyên đa dạng, như nhiên liệu hóa thạch, sinh
khối và điện phân nước bằng điện. Tác động môi trường và hiệu quả năng
lượng của hydro phụ thuộc vào cách nó được sản xuất.
Tiêu chuẩn hydro sạch là phát thải 2 kg CO2e/kg H2 đã được Văn phòng
Công nghệ pin nhiên liệu và hydro (Hoa Kỳ) công bố dựa trên Luật Cơ sở
hạ tầng Lưỡng đảng. Tiêu chuẩn này là một cách để áp dụng định nghĩa
hydro sạch độc lập với công nghệ. Thách thức chính đối với sản xuất
hydro là giảm chi phí công nghệ sản xuất để làm cho chi phí hydro thu
được có thể cạnh tranh với nhiên liệu vận chuyển thông thường.
Dưới đây là những công nghệ sản xuất hydro phổ biến nhất hiện nay:
1. Reforming/khí hóa khí thiên nhiên:
(Natural Gas Reforming/Gasification) - hỗn hợp của hydro, carbon
monoxide và một lượng nhỏ carbon dioxide được tạo ra bằng cách phản ứng
của khí tự nhiên với hơi nước ở nhiệt độ cao (700°C - 1.000°C). Carbon
monoxide phản ứng với nước để tạo ra thêm hydro. Phương pháp này là rẻ
nhất, hiệu quả nhất và phổ biến nhất.
Khí tổng hợp cũng có thể được tạo ra bằng cách cho than, hoặc sinh
khối phản ứng với hơi nước và oxy ở nhiệt độ cao trong lò khí hóa điều
áp. Điều này chuyển đổi than, hoặc sinh khối thành các thành phần khí -
một quá trình được gọi là khí hóa (Gasification). Khí tổng hợp thu được
chứa hydro và carbon monoxide, được phản ứng với hơi nước để tách hydro.
Reforming khí thiên nhiên (Natural gas reforming - NGR) là một quy
trình sản xuất tiên tiến và chín muồi được xây dựng dựa trên cơ sở hạ
tầng cung cấp đường ống dẫn khí đốt tự nhiên hiện có. Hiện nay, 95%
hydro được sản xuất tại Hoa Kỳ là bằng công nghệ này trong các nhà máy,
trung tâm lớn. Đây là một quy trình trình công nghệ quan trọng để sản
xuất hydro trong thời gian ngắn.
- Reforming hơi nước - Methane (Steam - Methane Reforming):
Đây là một quy trình sản xuất đã được chứng minh là chín muồi, trong
đó, hơi nước ở nhiệt độ cao (700°C - 1.000°C) được sử dụng để sản xuất
hydro từ nguồn khí mêtan (chẳng hạn như khí tự nhiên). Trong reforming
(hiểu đơn giản là tái sinh) hơi nước - metan, khí metan phản ứng với hơi
nước dưới áp suất 3 - 25 bar (1 bar = 14,5 psi) với sự có mặt của chất
xúc tác để tạo ra hydro, carbon monoxide và một lượng carbon dioxide
tương đối nhỏ. Quá trình tái sinh hơi nước là quá trình thu nhiệt - tức
là nhiệt phải được cung cấp cho quá trình để phản ứng diễn ra.
Sau đó, trong cái được gọi là “phản ứng dịch chuyển nước - khí”,
carbon monoxide và hơi nước được phản ứng bằng cách sử dụng chất xúc tác
để tạo ra carbon dioxide và nhiều hydro hơn. Trong bước quy trình cuối
cùng được gọi là “hấp phụ dao động áp suất”, carbon dioxide và các tạp
chất khác được loại bỏ khỏi dòng khí, để lại hydro tinh khiết. Reforming
hơi nước cũng có thể được sử dụng để sản xuất hydro từ các loại nhiên
liệu khác (chẳng hạn như ethanol, propan, hoặc thậm chí là xăng).
Phản ứng reforming hơi nước - metan: CH4 + H2O (+ nhiệt) → CO + 3H2.
Phản ứng dịch chuyển nước - khí: CO + H2O → CO2 + H2 (+ lượng nhiệt nhỏ).
- Oxy hóa một phần (Partial Oxidation):
Trong quá trình oxy hóa một phần, metan và các hydrocacbon khác trong
khí tự nhiên phản ứng với một lượng oxy hạn chế (thường là từ không
khí) không đủ để oxy hóa hoàn toàn các hydrocacbon thành carbon dioxide
và nước. Với ít hơn lượng oxy cân bằng hóa học có sẵn, các sản phẩm phản
ứng chứa chủ yếu là hydro, carbon monoxide (và nitơ, nếu phản ứng được
thực hiện với không khí chứ không phải oxy nguyên chất), và một lượng
tương đối nhỏ carbon dioxide cùng các hợp chất khác. Sau đó, trong phản
ứng dịch chuyển nước - khí, carbon monoxide phản ứng với nước để tạo
thành carbon dioxide và nhiều hydro hơn.
Quá trình oxy hóa phần là một quá trình tỏa nhiệt. Thông thường, quá
trình này nhanh hơn nhiều so với cải cách hơi nước và yêu cầu bình phản
ứng nhỏ hơn. Như có thể thấy trong các phản ứng hóa học của quá trình
oxy hóa một phần, quá trình này ban đầu tạo ra ít hydro hơn trên mỗi đơn
vị nhiên liệu đầu vào so với quá trình tái tạo hơi nước của cùng một
loại nhiên liệu.
Phản ứng oxy hóa phần metan: CH4 + ½O2 → CO + 2H2 (+ nhiệt).
Phản ứng dịch chuyển nước - khí: CO + H2O → CO2 + H2 (+ lượng nhiệt nhỏ).
Reforming khí tự nhiên với chi phí thấp có thể cung cấp hydro ngày
nay cho các phương tiện chạy bằng pin nhiên liệu (FCEV), cũng như các
ứng dụng khác. Về lâu dài, DoE hy vọng, việc sản xuất hydro từ khí tự
nhiên sẽ được tăng cường với sản xuất từ năng lượng tái tạo, hạt nhân,
than đá (có thu hồi, lưu trữ carbon) và các nguồn năng lượng trong nước
có hàm lượng carbon thấp khác.
Tiêu tốn nhiên liệu hydro và khí thải phát ra thấp hơn so với xe động
cơ đốt trong chạy bằng xăng. Sản phẩm duy nhất từ ống xả FCEV là hơi
nước, nhưng tổng lượng khí thải nhà kính đã giảm một nửa và tiêu thụ
nhiên liệu giảm hơn 90% so với xe chạy xăng ngày nay.
2. Công nghệ điện phân:
Dòng điện phân ly nước thành hydro và oxy. Nếu điện được sản xuất bởi
các nguồn tái tạo (chẳng hạn như năng lượng gió, mặt trời), thì hydro
thu được cũng sẽ được coi là tái tạo. Các dự án chuyển đổi năng lượng
thành hydro hiện đang sôi động, sử dụng điện năng tái tạo dư thừa (nếu
có) để tạo ra hydro thông qua quá trình điện phân.
Công nghệ điện phân (Electrolysis) là một lựa chọn đầy hứa hẹn để sản
xuất hydro không có carbon từ các nguồn năng lượng tái tạo và hạt nhân.
Đây thực chất là quá trình sử dụng điện để tách nước thành hydro và oxy
trong một thiết bị gọi là máy điện phân. Máy điện phân có thể có kích
thước từ thiết bị nhỏ, cỡ thiết bị rất phù hợp để sản xuất hydro phân
tán quy mô nhỏ đến các cơ sở sản xuất trung tâm, quy mô lớn có thể được
liên kết trực tiếp với các nguồn điện tái tạo.
Giống như pin nhiên liệu, máy điện phân bao gồm cực dương và cực âm
được ngăn cách bởi chất điện phân. Các máy điện phân khác nhau hoạt động
theo những cách khác nhau, chủ yếu là do loại vật liệu điện phân khác
nhau có liên quan và loại ion mà nó tiến hành.
- Máy điện phân dùng màng điện phân polymer:
Trong máy điện phân màng điện phân polymer (Polymer Electrolyte
Membrane Electrolyzers, hay PEM), chất điện phân là vật liệu nhựa đặc
biệt thể rắn. Nước phản ứng ở cực dương để tạo thành oxy và các ion
hydro tích điện dương (proton). Các electron chạy qua một mạch bên ngoài
và các ion hydro di chuyển có chọn lọc qua PEM đến cực âm. Ở cực âm,
các ion hydro kết hợp với các electron từ mạch ngoài để tạo thành khí
hydro.
Phản ứng cực dương: 2H2O → O2 + 4H+ + 4e-.
Phản ứng cực âm: 4H+ + 4e- → 2H2.
- Máy điện phân kiềm:
Máy điện phân kiềm hoạt động thông qua việc vận chuyển các ion
hydroxit (OH-) qua chất điện phân từ cực âm sang cực dương với hydro
được tạo ra ở phía cực âm. Máy sử dụng dung dịch kiềm lỏng của natri,
hoặc kali hydroxit làm chất điện phân đã có mặt trên thị trường trong
nhiều năm. Các phương pháp mới hơn sử dụng màng trao đổi kiềm rắn (AEM)
làm chất điện phân đang cho thấy nhiều hứa hẹn ở quy mô phòng thí
nghiệm.
- Máy điện phân oxit rắn:
Máy điện phân oxit rắn, sử dụng vật liệu gốm rắn làm chất điện phân
dẫn điện có chọn lọc các ion oxy tích điện âm (O2-) ở nhiệt độ cao, tạo
ra hydro theo một cách hơi khác.
Hơi nước ở cực âm kết hợp với các electron từ mạch ngoài để tạo thành
khí hydro và các ion oxy tích điện âm. Các ion oxy đi qua màng gốm rắn
và phản ứng ở cực dương để tạo thành khí oxy và tạo ra các electron cho
mạch ngoài.
Máy điện phân oxit rắn phải hoạt động ở nhiệt độ đủ cao để màng oxit
rắn hoạt động bình thường (khoảng 700° - 800°C, so với máy điện phân PEM
hoạt động ở nhiệt độ 70° - 90°C và máy điện phân kiềm thương mại thường
hoạt động ở nhiệt độ dưới 100°C). Máy điện phân oxit rắn tiên tiến ở
quy mô phòng thí nghiệm dựa trên chất điện phân gốm dẫn proton đang cho
thấy triển vọng giảm nhiệt độ vận hành xuống 500° - 600°C. Máy điện phân
kiểu này có thể sử dụng hiệu quả nhiệt có sẵn ở những nhiệt độ cao này
(từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cả năng lượng hạt nhân) để giảm lượng
điện năng cần thiết để sản xuất hydro từ nước.
Điện phân là con đường sản xuất hydro hàng đầu để đạt được mục tiêu
Hydrogen Energy Earthshot là giảm 80% chi phí hydro sạch xuống còn 1
USD/1 kg trong 1 thập kỷ. Hydrogen Energy Earthshot là sáng kiến của
DoE nhằm đẩy nhanh các bước đột phá về các giải pháp năng lượng sạch dồi
dào, có thể chi trả và đáng tin cậy hơn trong thập kỷ này.
Hydro được sản xuất thông qua quá trình điện phân không phát thải khí
nhà kính, tùy thuộc vào nguồn điện được sử dụng. Nguồn điện cần thiết -
bao gồm cả chi phí và hiệu quả, cũng như lượng khí thải do phát điện
phải được xem xét khi đánh giá lợi ích và khả năng kinh tế của việc sản
xuất hydro thông qua quá trình điện phân.
Ở nhiều vùng của Hoa Kỳ, lưới điện ngày nay không lý tưởng để cung
cấp điện cần thiết cho quá trình điện phân do khí nhà kính thải ra và
lượng nhiên liệu cần thiết cho quá trình phát điện. Vì vậy, sản xuất
hydro thông qua điện phân đang được kỳ vọng cho các lựa chọn năng lượng
tái tạo (gió, mặt trời, thủy điện, địa nhiệt) và năng lượng hạt nhân.
Các con đường sản xuất hydro này dẫn đến lượng khí thải nhà kính và chất
gây ô nhiễm tiêu chí gần như bằng không. Tuy nhiên, chi phí sản xuất
cần phải giảm thêm để có thể cạnh tranh với các phương pháp reforming
khí tự nhiên.
Sản xuất hydro thông qua quá trình điện phân có thể mang lại cơ hội
cho việc phát điện không ổn định và không liên tục, vốn là đặc điểm của
một số công nghệ năng lượng tái tạo. Ví dụ, mặc dù chi phí năng lượng
gió tiếp tục giảm, nhưng sự thay đổi vốn có của gió là một trở ngại cho
việc sử dụng hiệu quả năng lượng gió. Nhiên liệu hydro và sản xuất điện
có thể được tích hợp tại một trang trại gió, cho phép linh hoạt chuyển
đổi sản xuất để phù hợp nhất với nguồn tài nguyên sẵn có với nhu cầu vận
hành hệ thống và các yếu tố thị trường.
Ngoài ra, trong thời gian sản xuất điện dư thừa từ các trang trại
gió, thay vì cắt giảm lượng điện như thường được thực hiện, có thể sử
dụng lượng điện dư thừa này để sản xuất hydro thông qua quá trình điện
phân.
3. Reforming chất lỏng có nguồn gốc từ sinh khối:
Chất lỏng có nguồn gốc từ các nguồn sinh khối - bao gồm etanol và dầu
sinh học có thể được chuyển hóa để sản xuất hydro trong một quy trình
tương tự như reforming khí tự nhiên. Các chất lỏng có nguồn gốc từ sinh
khối có thể được vận chuyển dễ dàng hơn so với nguyên liệu sinh khối của
chúng, cho phép sản xuất bán trung tâm, hoặc có thể sản xuất hydro phân
tán tại các trạm tiếp nhiên liệu.
Quá trình reforming chất lỏng có nguồn gốc từ sinh khối thành hydro
rất giống với quá trình reforming khí tự nhiên và bao gồm các bước sau:
Nhiên liệu lỏng được phản ứng với hơi nước ở nhiệt độ cao với sự có
mặt của chất xúc tác để tạo ra khí tổng hợp, bao gồm chủ yếu là hydro,
carbon monoxide và một số carbon dioxide. Hydro và carbon dioxide bổ
sung được tạo ra bằng cách phản ứng carbon monoxide (được tạo ra ở bước
đầu tiên) với hơi nước ở nhiệt độ cao trong “phản ứng dịch chuyển nước -
khí”. Cuối cùng, hydro được tách ra và tinh chế.
Phản ứng reforming hơi nước (ethanol): C2H5OH + H2O (+ nhiệt) → 2CO + 4H2.
Phản ứng dịch chuyển nước - khí: CO + H2O → CO2 + H2 (+ lượng nhiệt nhỏ).
Tại Hoa Kỳ, có nhiều sinh khối hơn mức cần thiết cho nhu cầu thực
phẩm và thức ăn chăn nuôi. Một báo cáo gần đây dự đoán rằng: Với những
cải tiến dự kiến trong thực hành nông nghiệp và nhân giống cây trồng, có
thể có tới 1 tỷ tấn sinh khối khô để sử dụng làm năng lượng hàng năm.
Điều này tương đương với tiềm năng khoảng 13 - 14 triệu tỷ Btu/năm (vào
năm 2030). Sinh khối có tiềm năng trở thành nguồn đóng góp chính cho
năng lượng tái tạo.
4. Chuyển đổi sinh khối vi sinh vật:
Sinh khối được chuyển đổi thành nguyên liệu giàu đường có thể được
lên men để tạo ra hydro. Các quá trình chuyển đổi sinh khối vi sinh vật
(Microbial biomass conversion) tận dụng khả năng tiêu thụ và tiêu hóa
sinh khối của vi sinh vật và giải phóng hydro. Tùy thuộc vào lộ trình,
nghiên cứu này có thể dẫn đến các hệ thống quy mô thương mại trong khung
thời gian trung và dài hạn.
Trong các hệ thống dựa trên quá trình lên men, các vi sinh vật, chẳng
hạn như vi khuẩn, phân hủy chất hữu cơ để tạo ra hydro. Chất hữu cơ có
thể là đường tinh chế, nguồn sinh khối thô như thân cây ngô và thậm chí
cả nước thải. Bởi vì không cần ánh sáng, những phương pháp này đôi khi
được gọi là phương pháp “lên men tối”.
Trong quá trình lên men hydro trực tiếp, vi khuẩn tự tạo ra hydro.
Những vi khuẩn này có thể phá vỡ các phân tử phức tạp thông qua nhiều
con đường khác nhau và các sản phẩm phụ của một số con đường có thể được
kết hợp bởi các enzym để tạo ra hydro. Các nhà khoa học đang nghiên cứu
cách làm cho hệ thống lên men tạo ra hydro nhanh hơn (cải thiện tốc độ)
và tạo ra nhiều hydro hơn từ cùng một lượng chất hữu cơ (tăng sản
lượng).
Pin điện phân vi sinh vật (MEC) là thiết bị khai thác năng lượng và
proton do vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ tạo ra, kết hợp với một dòng
điện nhỏ bổ sung, để tạo ra hydro. Công nghệ này rất mới và các nhà
nghiên cứu đang nỗ lực cải thiện nhiều khía cạnh của hệ thống, từ việc
tìm kiếm vật liệu chi phí thấp hơn đến việc xác định loại vi khuẩn hiệu
quả nhất để sử dụng.
Sinh khối là một nguồn tài nguyên dồi dào và nhiều vi khuẩn đã tiến
hóa để phân hủy hiệu quả sinh khối để tạo ra hydro và các sản phẩm khác.
Quá trình lên men đã được sử dụng như một công nghệ công nghiệp để tạo
ra nhiên liệu sinh học và các sản phẩm khác, đồng thời nhiều thách thức
đối với việc mở rộng hệ thống đã được giải quyết cho các sản phẩm khác
nhau, cho phép các nhà nghiên cứu hydro tập trung vào những thách thức
riêng đối với sản xuất hydro. Các hệ thống dựa trên MEC có khả năng sản
xuất hydro từ các nguồn tài nguyên không thể sử dụng để sản xuất nhiên
liệu và có thể giảm lượng lớn năng lượng thường cần để xử lý nước thải
trong khi tạo ra nhiên liệu có giá trị ở dạng hydro.
Hiện nay các cải thiện tốc độ và sản lượng sản xuất hydro từ quá
trình lên men thông qua một số phương pháp như cải tiến chủng vi sinh
vật, tối ưu hóa hệ thống lò phản ứng, xác định nguồn nguyên liệu và
phương pháp xử lý đang được nghiên cứu để nâng cao năng suất phù hợp cho
mục đích thương mại quy mô lớn./.
KHẮC NAM - CHUYÊN GIA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
(THEO: AFDC/EG - 6/2023)
Nguồn:https://nangluongvietnam.vn/nhung-cong-nghe-san-xuat-hydro-pho-bien-nhat-hien-nay-cap-nhat-thang-72023-31003.html