Những
dòng vốn này là cần thiết để đáp ứng nhu cầu tài trợ tăng gấp 3 lần cho
các dự án carbon thấp trong các lĩnh vực vào năm 2030 nhằm đáp ứng các
mục tiêu không phát thải ròng vào năm 2050.
Dòng
vốn phục vụ chuyển đổi năng lượng đặc biệt rõ rệt ở Mỹ, Trung Quốc và
Liên minh châu Âu - đáp ứng các mục tiêu chính sách cấp cao nhưng được
thực hiện thông qua các kênh tài chính đặc biệt. Tuy nhiên, những thành
quả này vẫn chưa đủ để đạt được mục tiêu phát thải khí nhà kính bằng 0
như đã đặt ra trong Thỏa thuận Paris - đặc biệt là khi hoạt động thấp
hơn bên ngoài các khu vực trọng điểm này.
Thực
tế, dòng vốn hiện đang ưu tiên mạnh mẽ cho các tài sản tạo ra năng
lượng tái tạo, cụ thể là gió và mặt trời, mà ít tập trung hơn vào truyền
tải và lưu trữ. Sự chênh lệch giữa ý định chính sách và đầu tư hiện tại
có thể dẫn đến những trở ngại trong hội nhập và làm rối loạn chức năng
của thị trường năng lượng trừ khi thiết kế thị trường phát triển nhanh
chóng.
Việc
điều chỉnh các chính sách và quy định cũng mang lại rủi ro cho các nhà
phát triển và nhà đầu tư, với khả năng dự đoán trong dự báo thị trường
bị giảm sút.
Cụ
thể, chính phủ các quốc gia và các tổ chức tài chính toàn cầu đã đặt
việc phân bổ vốn làm trọng tâm trong các chính sách công nghiệp và năng
lượng của mình để đẩy nhanh và định hình quá trình chuyển đổi năng
lượng. Các chính phủ đang chuyển sang thị trường vốn vì dự kiến sẽ cần
quy mô đầu tư khổng lồ trong những thập kỷ tới.
Người
ta ước tính rằng, các mục tiêu hiện tại được các nền kinh tế lớn trên
thế giới đồng ý theo Thỏa thuận Paris sẽ đòi hỏi ít nhất gấp 3 lần đầu
tư chuyển đổi năng lượng toàn cầu (bao gồm tất cả quá trình khử carbon)
lên hơn 5 nghìn tỷ USD mỗi năm từ năm 2023 đến năm 2050, vượt xa bảng
cân đối kế toán của chính phủ.
Đầu
tư vào các tài sản tạo ra năng lượng tái tạo là một phần quan trọng của
quá trình chuyển đổi, với mức đầu tư hàng năm ước tính là 1,4 nghìn tỷ
USD cho đến năm 2050.
Trong
khi đó, S&P dự kiến đầu tư vào năng lượng tái tạo là 700 tỷ USD
mỗi năm cho đến năm 2050. Điều đó có nghĩa là khoảng cách tài trợ hàng
năm để đáp ứng mục tiêu theo mô hình bằng 0 có thể lên tới 700 tỷ USD.
Khoảng
cách tài trợ năng lượng tái tạo toàn cầu cũng tập trung nhiều ở các thị
trường mới nổi do rủi ro cao hơn và do đó, sự quan tâm của các nhà đầu
tư thấp hơn. Ví dụ, trong khi 65% dân số toàn cầu sống bên ngoài các thị
trường ở Trung Quốc, cộng với các nền kinh tế phát triển như được phân
tích trong bài viết này, đầu tư vào năng lượng sạch ở chính những quốc
gia đó chỉ bằng 20% tổng đầu tư toàn cầu. Ngược lại, các thị trường
như Mỹ, châu Âu và Trung Quốc không phải đối mặt với mức độ rủi ro đầu
tư. Ở những thị trường này, vốn đầu tư sẵn có hơn và khoảng cách tài
chính nhỏ hơn, mặc dù vẫn không đủ để đáp ứng các mục tiêu về không phát
thải ròng của khu vực. Đầu tư ở các nền kinh tế phát triển có nhiều khả
năng ở cấp độ đầu tư hơn và ở những nơi không đạt cấp độ đầu tư, thị
trường vốn phức tạp ở địa phương có thể đối diện với những rủi ro liên
quan.
Để
thúc đẩy chi tiêu xanh, các chính phủ đã triển khai các biện pháp
khuyến khích mới thông qua các loại cơ chế tài chính khác nhau nhằm giảm
rủi ro đầu tư và giảm chi phí khử carbon để tăng cường khả năng cung
cấp và phân bổ vốn. Những chính sách như vậy đã phát triển theo thời
gian.
Ở
Mỹ và châu Âu, về mặt lịch sử, ban đầu có sự thiên vị đối với năng
lượng tái tạo (tiêu chuẩn danh mục năng lượng tái tạo, hợp đồng bao tiêu
của chính phủ và thuế suất đầu vào ở châu Âu, tín dụng thuế đầu tư/tín
dụng thuế sản xuất ở Mỹ) và cuối cùng bây giờ là hướng tới quá trình khử
carbon trong công nghiệp.
Có
một số khác biệt giữa chính sách của Mỹ và châu Âu. Tại Mỹ, Đạo luật
giảm phát (IRA) cấp tín dụng thuế cho nhiều dự án và nhà đầu tư khác
nhau, những người có thể chọn nơi họ muốn điều hướng dòng tiền. Ngược
lại, ở châu Âu kém linh hoạt hơn do khung chính sách và ưu đãi cho từng
loại hình đầu tư khá khác nhau.
Mỗi
khối kinh tế lớn và mỗi quốc gia có thể áp dụng cách tiếp cận khác nhau
để tận dụng tài chính và vốn toàn cầu, nhưng những điểm tương đồng toàn
cầu nổi bật hơn sự khác biệt giữa các quốc gia hoặc khu vực, trong đó
các chính phủ rút ra từ cùng một bộ công cụ giải pháp. Sự nhấn mạnh của
IRA hướng tới khuyến khích giải phóng việc phân bổ vốn đã khởi đầu một
cuộc chạy đua mang lại cơ hội đầu tư trên toàn thế giới. Tuy nhiên, có
một điểm khác biệt là Mỹ và châu Âu đang gieo mầm phát triển mới cho
chuỗi cung ứng địa phương, trong khi Trung Quốc vừa bảo vệ vừa mở rộng
chuỗi cung ứng của mình.
Bình An
Nguồn:https://nangluongquocte.petrotimes.vn/tai-tro-cho-nang-luong-tai-tao-vao-nam-2023-chuyen-doi-von-duoc-giai-phong-694327.html