Nhạy bén với tầm quan trọng của năng lượng nói chung, điện khí hóa lỏng nói riêng, các nhà đầu tư đã bước vào sân chơi này từ nhiều năm qua. Không ít trong số đó đang sở hữu các dự án then chốt trong quy hoạch điện quốc gia và ngành công nghiệp khí.
Những dự án của Hải Linh đang giữ vai trò rất quan trọng trong quy hoạch kho chứa LNG phía Nam, khi những siêu dự án như Kho chứa 1 triệu tấn LNG tại Thị Vải vẫn đang chờ ngày hoàn thiện sau nhiều năm ì ạch
Một trong các kịch bản sẽ được xem xét trong Quy hoạch điện VIII là tăng cường phát triển năng lượng tái tạo như gió, mặt trời và tăng cường xây dựng các nhà máy nhiệt điện sử dụng LNG nhập khẩu.
Cũng cần nhắc tới một quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị là: “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hóa các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch…; ưu tiên phát triển điện khí, có lộ trình giảm tỷ trọng điện than một cách hợp lý; chủ động nhập khẩu nhiên liệu từ nước ngoài cho các nhà máy điện”.
Đây là lý do khoảng 2-3 năm nay, chứng kiến loạt dự án được đề xuất, cấp chủ trương tại một số địa phương. Đơn cử: nhà máy điện khí LNG Bạc Liêu (công suất 3.200MW) do Delta Offshore Energy triển khai với tổng vốn khoảng 4 tỷ USD; tổ hợp điện khí LNG Long Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu) công suất 1.600MW giai đoạn 1; Khí điện LNG Cái Mép Hạ (Bà Rịa – Vũng Tàu); hai tổ hợp điện khí LNG tại Hải Phòng (một dự án tại Tiên Lãng do Exxon Mobil đề xuất với công suất 4.500MW, tổng mức đầu tư khoảng 5 tỷ USD và một dự án tại đảo Cái Tráp 1.600MW); điện khí LNG Quảng Ninh 1.500MW với tổng chi phí khoảng 47.500 tỷ đồng…
Đáng chú ý, lĩnh vực hạ tầng khí hóa lỏng cũng "nóng" không kém, với dấu ấn của một số nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Nổi bật trong đó là trường hợp của Công ty TNHH Hải Linh – "ông trùm" xăng dầu đang nắm giữ nhiều dự án quan trọng trong quy hoạch ngành công nghiệp khí. Doanh nghiệp (do ông Lê Văn Tám làm chủ tịch) tới nay sở hữu bộ sưu tập các dự án hạ tầng xăng dầu, kho chứa LNG từ Bắc vào Nam rất ấn tượng.
Điển hình, dự án kho tiếp nhận khí thiên nhiên hóa lỏng và tái hóa khí thiên nhiên Hải Linh Vũng Tàu quy mô 220.000m3 (giai đoạn 1 là 120.000m3) tại KCN Cái Mép có tổng trị giá khoảng 8.400 tỷ đồng (30% là vốn tự có, còn lại là vay ngân hàng trong nước). Dự án này đã được phê duyệt vào Quy hoạch phát triển công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035.
Với diện tích đất 9ha, dự án nhằm tiếp cận LNG từ nguồn nhập khẩu và sau đó tái hóa khí để cung cấp cho các khách hàng tiêu thụ khí tại khu vực miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung. Trong số các khách hàng mục tiêu của dự án, bao gồm cả các nhà máy điện, đạm trong KCN Phú Mỹ và có tính đến KCN Nhơn Trạch.
Dự án này nhận được quan tâm của Vietcombank – chi nhánh Đền Hùng và ngân hàng này cam kết sẽ cho Công ty Hải Linh vay vốn thực hiện dự án khi Công ty đáp ứng đủ các quy định cho vay hiện hành. Chủ đầu tư cho biết chỉ mất 5 năm 7 tháng là thu hồi vốn.
Hải Linh cũng đã mua lại nhà máy điện Hiệp Phước và đang tiến hành nâng cấp, cải tạo để có thể phát điện bằng nhiên liệu khí. Nhà máy điện Hiệp Phước (đầu tư theo hình thức BOO) được cấp phép đầu tư từ năm 1993 với nguồn nhiên liệu đầu vào là dầu diesel, tổng công suất 375MW và vốn đầu tư 280 triệu USD. Dừng hoạt động từ 2011, nhà máy điện Hiệp Phước được Hải Linh mua lại từ đối tác Đài Loan và được lên kế hoạch xây nhà máy điện sử dụng khí quy mô 1.500-1.700MW.
Nhà máy điện Hiệp Phước cùng với khu chế xuất Tân Thuận và khu đô thị Phú Mỹ Hưng vốn là những dự án do Tập đoàn CT&D (Central Trading & Development Group) đến từ Đài Loan đầu tư tại TP. HCM. Công ty TNHH Hải Linh có ý định nâng cấp nhà máy điện Hiệp Phước hiện nay lên quy mô 1.000 MW và có kế hoạch xây thêm nhà máy điện dùng khí khác với quy mô 1.500 MW cũng tại khu vực này.
Trước đó, vào năm 2009, nhà máy điện Hiệp Phước đã lần đầu tiên nhận khí được cấp thông qua hệ thống đường ống dẫn khí Phú Mỹ - TP.HCM dài 39 km. Khi đó, công suất cấp khí của đường ống cho 3 tổ máy phát điện của nhà máy khoảng 104.000 m3 khí/giờ, tương đương với 2,7 triệu m3/ngày.
Ngoài ra, khoảng 2 năm trước, Công ty Hải Linh cũng đã thương thảo với Tổng công ty phát điện 3 để cung cấp nguồn khí LNG nhập khẩu cho các nhà máy đặt tại khu vực Phú Mỹ (Bà Rịa – Vũng Tàu). Doanh nghiệp này cho biết sẽ phối hợp với các đối tác nước ngoài hợp tác với EVN để cung cấp, cải tạo các nhà máy của EVN chuyển đổi công năng từ chạy dầu sang chạy khí.
Ra đời từ năm 2002, Công ty TNHH Hải Linh đến nay được đánh giá có vai trò quan trọng trong việc ổn định thị trường xăng dầu tại các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là đảm bảo cung ứng và ổn định thị trường xăng dầu tại các tỉnh Phú Thọ, Lào Cai, Hà Nam, Yên Bái, Hải Phòng… Ở khu vực nêu trên, thị phần xăng dầu của Hải Linh đã có thời điểm chiếm 20-30%, khí gas nhiên liệu chiếm tới 50%.
Ngoài ra, Hải Linh còn sở hữu một công ty thương mại hoạt động tại Singapore và nhiều dự án đang thực hiện (kho ngoại quan ở Cái Mép Vũng Tàu có sức chứa 120.000m3 và đang được nâng sức chứa lên 320.000m3, dự án xây dựng bể chứa khí hóa lỏng thiên nhiên sức chứa 200.000m3 ở Cái Mép).
Năm 2016, Hải Linh (đã trở thành doanh nghiệp đầu mối xăng dầu) mua lại Kho xăng dầu Cái Mép (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) với sức chứa giai đoạn 1 đạt 120.000m3 từ Công ty CP Dầu khí Vũng Tàu và đầu tư mở rộng, nâng sức chứa kho. Hệ thống kho và tổng kho xăng dầu tại các tỉnh của Hải Linh có tổng sức chứa khoảng 240.000m3, doanh thu hàng năm trên 10.000 tỷ đồng. Tính tới đầu năm 2022, vốn điều lệ của Hải Linh là 2.050 tỷ đồng. Cổ đông lớn nhất là ông Lê Văn Tám (nắm 68,67% vốn), còn lại là bà Nguyễn Thị Hải (sở hữu 31,33%).
Đây có thể coi là trường hợp điển hình về sự nhanh nhạy trong đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng LNG. Theo dự báo của PVN và PVGAS về nhu cầu tiêu thụ và khả năng cung cấp khí thiên nhiên tại Việt Nam giai đoạn 2017-2035 thì sẽ thiếu hụt khoảng 76 tỷ m3 (> 60 triệu tấn quy đổi LNG/ 18 năm, trung bình mỗi năm thiếu khoảng 0,5 – 5,0 triệu tấn). Để bù đắp sự thiếu hụt này, cần thiết phải phát triển các nguồn khí mới, xây dựng cơ sở hạ tầng để thu gom, phát triển các mỏ khí cận biên và nhập khẩu LNG.
Vấn đề trên cũng được nhắc tới trong Quy hoạch phát triển ngành Công nghiệp khí ở Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035 với sự cần thiết phải xây dựng cơ sở hạ tầng để sẵn sàng tiếp nhận LNG nhập khẩu với khối lượng 1 - 4 tỷ m3/năm cho giai đoạn 2021 - 2025, tăng lên 6 - 10 tỷ m3/năm cho giai đoạn 2026 - 2035.
https://theleader.vn/ong-trum-trong-san-choi-ha-tang-lng-1657120562945.htm