Với suất đầu tư từ 2,5 - 3 tỷ USD/GW điện gió ngoài khơi, Việt Nam hoàn toàn có thể thu hút hàng trăm tỷ USD trong thập niên tới.
Đây là nhận định của ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng điện gió ngoài khơi được đánh giá cao. Nguồn ảnh: Thăng Long Wind.
Tiềm năng gió của Việt Nam hiện đã thu hút nhiều nhà đầu tư nhưng để phát triển điện gió ngoài khơi với chi phí đầu tư rất lớn và thời gian thu hồi vốn dài, trong bối cảnh Việt Nam đang hoàn thiện thị trường điện và hành lang pháp lý liên quan là một bài toán đòi hỏi có sự chia sẻ giữa các bên liên quan, kết hợp kinh nghiệm quốc tế với điều kiện của Việt Nam.
Theo tính toán của Bộ Công Thương, đến năm 2030, nhu cầu tổng công suất điện lắp đặt là gần 140GW (tăng gần gấp đôi so với cuối 2020), năm 2045 là gần 280 GW (tăng gần gấp bốn lần so với năm 2020), nhu cầu vốn đầu tư cho mỗi năm từ nay đến năm 2045 là gần 13 tỷ USD. Nếu không có giải pháp đột phá và bền vững thì việc phát triển điện lực sẽ làm ảnh hưởng tới các mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Trong khi đó, Dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Dự thảo Quy hoạch điện VIII), mục tiêu tăng trưởng của kinh tế Việt Nam bình quân là 6,1% đến năm giai đoạn 2021 - 2030 và 5,7% giai đoạn 2031 - 2045.
Báo cáo của Hội đồng năng lượng gió toàn cầu (GWEC2) phát hành tháng 3/2021, sau 20 năm, từ năm 2001 đến 2020, tổng công suất lắp đặt điện gió ngoài khơi là 35 GW thì sau 5 năm, từ năm 2021 đến 2025, tổng công suất lắp đặt là dự kiến 70GW và từ năm 2021 đến năm 2030, tổng công suất lắp đặt là dự kiến là 234 GW. Tổng công suất lắp đặt toàn thế giới sau 30 năm dự kiến là 340 GW. Giai đoạn 2021 - 2030, tổng công suất lắp đặt sẽ tăng 700% so với 20 năm trước đó. Châu Á bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam là các nước tiềm năng phát triển nhất theo dự báo của GWEC.
Ngoại trừ Việt Nam chưa chính thức công bố, các nước nêu trên đều đặt ra các mục tiêu hết sức tham vọng từ năm 2020 đến 2030, cụ thể là Trung Quốc từ 9W lên 50 GW, Ấn Độ từ 5GW lên 30 GW, Đài Loan từ 0,128 GW lên 15 GW, Hàn Quốc từ 0,145 GW lên 12 GW, Nhật Bản từ 0,62 MW lên 10GW. Như vậy, triển vọng phát triển điện gió ngoài khơi cho đến năm 2030 đang thuộc về các nước trong khu vực Châu Á, trong đó có Việt Nam. Điện gió ngoài khơi của Việt Nam có tiềm năng kỹ thuật khoảng 475GW (theo báo cáo của Ngân hàng thế giới-WB) hay khoảng 162 GW (theo báo cáo của Cơ quan năng lượng Đan Mạch - DEA).
Tại Việt Nam, theo Dự thảo quy hoạch điện VIII, lần đầu tiên, điện gió ngoài khơi đã được định nghĩa là các dự án điện gió tại khu vực có độ sâu đáy biển từ 20m trở lên. Tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm đến gần 30% tổng nguồn điện đến năm 2030, tuy nhiên đối với điện gió ngoài khơi theo kịch bản cơ sở thì đến năm 2030 công suất lắp đặt chỉ chiếm tỷ lệ 1,45% (2GW/137,662 GW) và đối với kịch bản cao là 2% (3GW/147,552GW).
Việt Nam khi đó sẽ được hưởng lợi từ phát triển điện gió ngoài khơi với chi phí năng lượng quy chiếu (LCOE) giảm dần, tạo việc làm mới thu hút vốn đầu tư, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu và giảm phát thải khí CO2.
Xuất phát từ kinh nghiệm phát triển điện gió ngoài khơi trên thế giới, các công ty tư vấn quốc tế cũng đã có những khuyến nghị Việt Nam nên cho phép triển khai một số dự án đủ lớn theo giai đoạn để khởi động cho lĩnh vực này (thông cáo báo chí ngày 22/9/2020 của DEA - Bộ Công Thương - WBG). Cơ chế, thủ tục lựa chọn dự án, nhà đầu tư và các vấn đề pháp lý liên quan là các nội dung cần được các cơ quan hữu quan hướng dẫn sớm để tạo môi trường thu hút đầu tư, phát triển nguồn điện gió ngoài khơi đầy tiềm năng mang tầm cỡ thế giới của Việt Nam.
Nhận thấy tiềm năng rất lớn điện gió ngoài khơi, một số địa phương đã đề xuất với Bộ Công Thương và Chính phủ cho phép triển khai dự án các điện gió ngoài khơi, trong đó tập trung nhiều nhất ở tỉnh Bình Thuận. UBND tỉnh Bình Thuận cũng đã có các văn bản kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét ưu tiên đưa dự án Thăng Long Wind của Tập đoàn Enterprize Energy (Anh) vào sơ đồ điện VIII, xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột cho điện gió ngoài khơi.
Ông Ian Hatton, Chủ tịch Tập đoàn Enterprize Energy chia sẻ: Với tiềm năng gió của Việt Nam kết hợp với sự phát triển nhanh chóng về công nghệ hiện nay, dự án Thăng Long Wind sẽ đảm bảo phát điện và giữ ổn định lưới điện thông qua hệ thống tích trữ năng lượng LAES theo các quy định của Việt Nam. Enterprize Energy hiện đã ký hợp đồng và biên bản thỏa thuận với một số đơn vị thuộc tập đoàn dầu khí PVN để khảo sát biển, gia công chế tạo chân đế, dịch vụ cảng bãi… Enterprize Energy đã đề xuất phương án tích trữ điện cho dự án từ công nghệ hóa lỏng khí thiên nhiên (LAES) hợp tác với công ty Highview Power (Anh) và phát triển công nghệ điện phân nước biển sử dụng điện từ dự án Thăng Long Wind sản xuất ra khi Hydro và Amonia hợp tác với Công ty Tractebel Overdick (CHLB Đức).
https://vtv.vn/goc-doanh-nghiep/xu-the-phat-trien-dien-gio-ngoai-khoi-tai-viet-nam-va-quoc-te-20210610152138829.htm