Với mục tiêu chuyển đổi năng lượng xanh, đẩy mạnh phát triển kinh tế
biển, chuỗi cung ứng ngành điện gió ngoài khơi của Việt Nam có nhiều cơ
hội tăng trưởng.
Cơ hội cho Việt Nam
Theo
một báo cáo do BVG Associates thực hiện năm 2021 nghiên cứu đánh giá
tác động kinh tế dự án điện gió ngoài khơi La Gàn có công suất dự kiến
3,5GW nằm ngoài khơi tỉnh Bình Thuận, trên 40% tỷ trọng trong chuỗi cung ứng cho dự án có thể được thực hiện bởi các công ty tại Việt Nam.
Tiềm năng nội địa hóa trong dự án điện gió ngoài khơi theo Báo cáo “Nghiên cứu đánh giá tác động kinh tế dự án La Gàn”
Ông
Trần Xuân Bách - Phụ trách phát triển chuỗi cung ứng của Tập đoàn
Copenhagen Infrastructure Partners (CIP) tại Việt Nam tin rằng, có rất
nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt tham gia vào chuỗi cung ứng ngành
điện gió ngoài khơi, một lĩnh vực khá mới mẻ và hiện đang trong giai
đoạn tương đối sơ khai của Việt Nam.
Ông
Trần Xuân Bách - Phụ trách phát triển chuỗi cung ứng của CIP tại Việt
Nam, phát biểu trong một hội thảo về điện gió ngoài khơi. Ảnh: MH
Cụ
thể, các nhà thầu trong nước có thể tham gia vào công tác vận hành và
bảo trì tuabin, xây dựng trạm biến áp, lắp đặt cáp biển chiếm gần 24%
tổng tỷ trọng dự án. Các hạng mục khác bao gồm chế tạo trạm biến áp trên bờ và ngoài khơi, cung cấp móng monopile, dịch vụ cảng cho thi công biển…
Lợi thế gần nhiều cảng biển lớn
Trong
tương lai, để phục vụ quá trình xây dựng và lắp đặt, hạ tầng cảng biển
cần đáp ứng một số yêu cầu cụ thể, bao gồm: Cảng có trọng tải trên
20.000 DWT; độ sâu mực nước trước bến tối thiểu 10m; chiều dài cầu cảng
lý tưởng từ 350-400m; sức chịu tải của mặt cảng, nền bãi từ 10-50
tấn/m2.
Các dự án điện gió ngoài
khơi tại khu vực tỉnh Bình Thuận, tiêu biểu như dự án La Gàn, có lợi thế
gần nhiều cảng biển lớn như: Cảng Vĩnh Tân, Cảng Cà Ná, Cảng Cam Ranh
đều là các cảng biển nước sâu, phù hợp cho các tàu lớn cập cảng và xếp
dỡ hàng hóa. Vị trí cảng ở gần dự án góp phần rút ngắn thời gian di
chuyển của tàu vận chuyển – lắp đặt, giúp tiết kiệm chi phí và đẩy nhanh
tiến độ dự án. Những cảng trên có thể dễ dàng điều chỉnh để phục vụ các
dự án điện gió ngoài khơi, tuy nhiên, cần sớm có kế hoạch và chiến lược
đầu tư.
Cảng phục vụ thi công xây lắp cần nâng cấp để phù hợp lắp đặt các thiết bị khổng lồ. Ảnh minh họa
Sau
khi hoàn thành xây dựng, công tác vận hành và bảo trì đóng vai trò rất
quan trọng, chiếm phần lớn thời gian hoạt động của dự án (25 -35 năm).
Trung tâm vận hành và bảo trì cần được xây dựng, đảm bảo các yêu cầu về
hạ tầng cảng cho neo đậu tàu dịch vụ, khu văn phòng làm việc, kho, bãi
tập kết vật tư thiết bị. Do các tuabin ngoài khơi thường được theo dõi
để vận hành bảo trì hàng ngày, trung tâm vận hành nên được bố trí gần dự
án để tàu dịch vụ có thể đi về trong ngày.
Do
yêu cầu đặc thù của dự án điện gió ngoài khơi, cảng đầu tiên chuyển
dịch sẽ có ưu thế trở thành cảng trung tâm của khu vực, đồng thời sẽ thu
hút các công ty, nhà máy trong chuỗi cung ứng tập trung về khu vực này
để sản xuất, cung cấp dịch vụ phục vụ dự án. Cảng Esbjerg ở Đan Mạch là
một ví dụ điển hình về việc mở rộng năng lực phục vụ từ một dự án lên
hàng loạt dự án điện gió ngoài khơi trong khu vực.
Sản xuất tuabin và móng monopile
Với
xu hướng tăng công suất của các tuabin điện gió ngoài khơi, công suất
tuabin của các dự án sắp tới có thể lên đến trên 16MW. Hiện nay, Việt
Nam đã có nhà máy sản xuất tháp tuabin và tuabin điện gió trên bờ công
suất trung bình. Tuy nhiên, một số nhà máy cũng có kế hoạch mở rộng để
sản xuất tháp tuabin lớn hơn phục vụ các dự án trong nước và khu vực.
Cánh
tuabin điện gió ngoài khơi có kích thước rất lớn và thường có chi phí
vận chuyển khá cao. Hiện tại, Việt Nam chưa có nhà máy sản xuất cánh
tuabin cho điện gió ngoài khơi. Việc phát triển ngành điện gió ngoài
khơi sẽ tạo động lực để xây dựng nhà máy sản xuất cánh tuabin tại Việt
Nam như một giải pháp để giảm chi phí vận chuyển và chủ động tiến độ sản
xuất. Các nhà cung cấp tuabin sẽ chỉ xây dựng nhà máy khi họ bắt đầu có
đơn hàng từ một loạt dự án và có sự chắc chắn nhất định về số lượng
cũng như công suất của các dự án trong tương lai.
Việt
Nam có nhiều khu vực biển có mực nước nông, đáy biển bằng phẳng và địa
chất tương đối phù hợp với dạng móng monopile (dạng móng rẻ và dễ chế
tạo nhất). Việt Nam có nhiều lợi thế để đầu tư nhà máy sản xuất móng
monopile nhờ kinh nghiệm sẵn có trong ngành dầu khí và sản xuất kết cấu
thép. Với lực lượng lao động lành nghề và chi phí cạnh tranh, khả năng
chuyển dịch nguồn lao động này sang sản xuất móng monopile là tương đối
dễ dàng.
Các quyết định hỗ trợ
khởi tạo ngành điện gió ngoài khơi cần được đưa ra nhằm đảm bảo sự chắc
chắn cần thiết trước khi đầu tư vào chuỗi cung ứng trong nước. Với sự hỗ
trợ của Chính phủ, quyết tâm mạnh mẽ từ các nhà đầu tư, sự chủ động kế
hoạch sản xuất của các nhà cung ứng trong nước, nếu Việt Nam bắt đầu
ngay vào việc nghiên cứu và phát triển chuỗi cung ứng nội địa sẽ giúp
hiện thực hóa mục tiêu 6GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030, góp phần
thay đổi bộ mặt kinh tế của các địa phương và giúp Việt Nam thành công
trong việc chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững.
Thu Hường
Nguồn:https://congthuong.vn/tiem-nang-phat-trien-chuoi-cung-ung-cho-nganh-dien-gio-ngoai-khoi-tai-viet-nam-275988.html