Theo báo cáo của World Bank Group và tư vấn BVG Associates cho thấy: Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) hoàn toàn có đầy đủ năng lực để thực hiện
toàn bộ công việc liên quan đến ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi
(ngoại trừ cung cấp tua bin, cáp ngầm, máy biến áp). Đặc biệt, nhờ vào
thế mạnh cơ sở vật chất, thiết bị, nhân lực, PVN có những lợi thế để
tiết kiệm chi phí, nâng cao tính cạnh tranh, mang lại hiệu quả cao hơn
cho các dự án điện gió ngoài khơi trong cả vai trò chủ đầu tư và tổng
thầu... Tổng hợp của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam.
Bối cảnh quốc tế và Việt Nam:
Với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính để giảm thiểu các tác động
biến đổi khí hậu trên toàn cầu đang cho thấy những chuyển biến rõ nét từ
nhiên liệu hóa thạch sang các nguồn năng lượng xanh, sạch hơn. Cam kết
phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam tại COP26 là cơ hội
chuyển đổi mô hình phát triển hướng tới kinh tế xanh, tuần hoàn, bền
vững, nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với các tập đoàn hoạt động
trong lĩnh vực năng lượng của Việt Nam, trong đó có PVN.
Nắm bắt xu hướng chuyển dịch năng lượng, cùng với sự biến động phức
tạp của thị trường dầu khí, hầu hết các công ty dầu khí lớn trên thế
giới như: Total, BP, Orsted, Equinor, Shell, Eni, Repsol, Chevron, CNOC,
Petronas... đã tham gia đầu tư vào năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện
gió ngoài khơi.
Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA): Ngành công nghiệp
dầu khí có thể đóng góp kinh nghiệm chuyên môn của ngành đến 40 - 45%
chi phí cả đời của 1 dự án điện gió ngoài khơi.
Để có thể phát triển điện gió ngoài khơi quy mô lớn, các doanh nghiệp
dầu khí quốc gia đóng vai trò hết sức quan trọng. Điều này đã được các
chuyên gia, tổ chức tư vấn lớn trên thế giới, cũng như trong nước khẳng
định. Với kinh nghiệm triển khai các dự án dầu khí ngoài khơi (chia sẻ
chuỗi cung ứng và công nghệ), sự hợp lực giữa 2 ngành công nghiệp (dầu
khí và điện gió ngoài khơi) sẽ đóng góp rất lớn cho các nhà phát triển
nguồn điện tái tạo này.
Thực tế cho thấy, hiện nay các nhà đầu tư hàng đầu trên thế giới
trong ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi đều đến từ các tập đoàn dầu
khí như: Orsted, Equinor, Shell...
Từ năm 2019, PVN đã tập trung đánh giá, nghiên cứu vấn đề dịch chuyển
năng lượng để điều chỉnh, bắt kịp các xu hướng, tận dụng tối đa thế
mạnh, trong đó định hướng xu hướng dịch chuyển sang năng lượng xanh
thông qua nâng cao tỷ trọng khí, sản xuất Hydrogen và phát triển điện
gió ngoài khơi.
Tổng quan năng lực của PVN liên quan đến lĩnh vực điện gió ngoài khơi:
PVN hoạt động trong 5 lĩnh vực chính:
1/ Tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí.
2/ Công nghiệp khí.
3/ Công nghiệp điện và năng lượng tái tạo.
4/ Chế biến, tồn trữ và phân phối sản phẩm dầu khí.
5/ Dịch vụ dầu khí.
Thực tế đã chứng minh rằng: Trong nhiều năm qua, PVN đã chiếm vị trí
đặc biệt quan trọng trong hệ thống năng lượng quốc gia. Cụ thể, trong
giai đoạn 2010 - 2020, nguồn cung năng lượng sơ cấp của PVN chiếm trung
bình 25 - 27% trong tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp Việt Nam, tỷ trọng
nguồn năng lượng cuối cùng của PVN trong tổng nguồn năng lượng cuối
cùng Việt Nam chiếm trung bình 18 - 27%.
Đặc biệt, cùng với lịch sử phát triển ngành dầu khí, PVN đã xây dựng
được hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, với đội ngũ nhân lực
chất lượng rất cao để có thể làm chủ đầu tư, tổng thầu tư vấn, thiết kế,
mua sắm thiết bị, xây dựng, lắp đặt (EPCI), nhà thầu cung cấp các dịch
vụ kỹ thuật chất lượng cao, phục vụ các dự án ngoài khơi tại Việt Nam,
cũng như trên thế giới.
Với hệ thống hạ tầng, nhà xưởng, kho bãi, thiết bị vận chuyển, thi
công được trang bị đầy đủ, có tính tự động hóa cao. PVN và các đơn vị
thành viên luôn được các khách hàng tin tưởng lựa chọn, giao tổng thầu
EPC cho các dự án lớn ngoài khơi và cả trên bờ.
Cơ sở hạ tầng:
Với hạ tầng, cơ sở vật chất cho các dự án dầu khí ngoài khơi đã có,
có thể coi đây là thế mạnh của Việt Nam trong việc phát triển điện gió
ngoài khơi, cũng như thế mạnh của PVN nói riêng đóng góp cho ngành công
nghiệp này, góp phần tăng tỷ lệ nội địa hóa, tận dụng tối đa nguồn lực
sẵn có của các đơn vị trong nước, tránh lãng phí đầu tư nguồn lực, thậm
chí còn có thể xuất khẩu dịch vụ sang các nước trong khu vực. Cụ thể như
sau:
Thứ nhất: Cảng và khu vực bãi chế tạo: PVN đang quản lý và vận hành
hệ thống gồm các cảng dịch vụ trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam với tổng
diện tích gần 400 ha như: Cảng PTSC Đình Vũ (15,2 ha), cảng Nghi Sơn (35
ha), cảng Hòn La (8,8 ha), cảng Sơn Trà (10 ha), cảng Dung Quất (4,2
ha), cảng tổng hợp Phú Mỹ (26,5 ha), cảng Sao Mai - Bến Đình (163 ha),
cảng Vietsovpetro (32ha), cảng hạ lưu Vũng Tàu (82,2 ha), cảng
PVShipyard (23ha)... và các cảng chuyên dụng khác.
Trong đó, một số cảng có khả năng tiếp nhận tàu lên đến 70.000 DWT
(như cảng Dung Quất, cảng Nghi Sơn), công suất mỗi bãi chế tạo mỗi năm
từ 20 - 50 nghìn tấn kết cấu (như cảng Vietsovpetro, cảng PTSC, cảng
PVC-MS). Do đó, việc PVN tham gia vào lĩnh vực điện gió ngoài khơi của
Việt Nam sẽ tận dụng tối đa hạ tầng công nghiệp đã đầu tư, tránh lãng
phí nguồn lực của đất nước.
Thứ hai: Nhà xưởng và trang thiết bị chế tạo trên bờ: Dịch vụ cơ khí
chế tạo và xây lắp công trình biển là một trong số những loại hình dịch
vụ quan trọng đối với các dự án ngoài khơi. PVN hiện đang sở hữu các khu
căn cứ thi công chế tạo công trình dầu khí tại Vũng Tàu, Quảng Ngãi,
Thanh Hóa với điều kiện cơ sở vật chất, cảng bãi, kho hàng, thiết bị cẩu
kéo, thiết bị nâng hạ và các máy móc thiết bị cơ sở khác… Các cơ sở này
hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu cho các dự án điện gió ngoài khơi.
Thứ ba: Phương tiện thi công biển: Các đơn vị của PVN như: PTSC,
Vietsovpetro, PVTrans... hiện đang sở hữu, quản lý đội tàu dịch vụ gần
100 chiếc, đa dạng về công suất và chủng loại (như tàu cẩu 1200/600 tấn,
tàu kéo, thả neo, xà lan vận chuyển, tàu định vị động học DP, tàu hỗ
trợ lặn khảo sát, tàu chống cháy, tàu trực mỏ, tàu bảo vệ…) được vận
hành hoàn toàn bởi đội ngũ thuyền viên Việt Nam có năng lực, giàu kinh
nghiệm có thể đáp ứng tốt các dự án điện gió ngoài khơi.
Nguồn lực tài chính:
Theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán, tổng tài sản của Công ty mẹ
- PVN tại thời điểm ngày 31/12/2022 là 519.286 tỷ đồng, tăng 7.691 tỷ
đồng so với năm 2021. Trong đó, tài sản ngắn hạn đạt 217.451 tỷ đồng,
tăng 8.239 tỷ đồng chiếm 41,9% tổng tài sản; tài sản dài hạn đạt 301.835
tỷ đồng và chiếm 58,1% tổng tài sản. Vốn chủ sở hữu tại ngày 31/12/2022
đạt 377.379 tỷ đồng.
PVN đã được Fitch ratings xếp hạng
tín dụng độc lập ở mức BB+. Vì vậy, trong giai đoạn tới, công tác thu
xếp vốn cho các dự án đang, sẽ
triển khai, cũng như các dự án nghiên cứu, tìm kiếm cơ hội đầu tư của
PVN, đặc biệt là đầu tư vào các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo
hoàn toàn có thể đáp ứng được theo yêu cầu trong bối cảnh thị trường
vốn quốc tế và trong nước ngày càng rộng mở với chi phí vốn hợp lý.
Những dự án (trên bờ, ngoài khơi) do PVN thực hiện:
Tính đến nay, PVN đã thực hiện hơn 100 các dự án lớn (từ trên bờ ra
ngoài khơi) đảm bảo an toàn, chất lượng, tiến độ, hiệu quả, được các
khách hàng lớn trong và ngoài nước đánh giá cao. Hàng loạt các công
trình, dự án ngoài khơi lớn mang tầm cỡ trong khu vực mà PVN đã thực
hiện hoàn toàn bởi người lao động Việt Nam. Xin nêu một số công trình
điển hình gồm dưới đây:
1/ Giàn khoan tự nâng Tam Đảo 03 (khả năng khoan tại độ sâu 90m nước)
và Tam Đảo 05 (khả năng khoan tại độ sâu lên tới 130m nước).
2/ Giàn khai thác, xử lý khí Sao Vàng (Lô 05-1b&05-1c) có tổng
trọng lượng lên tới 26,6 nghìn tấn (chân đế 12,6 nghìn tấn và khối
thượng tầng khoảng 14 nghìn tấn).
3/ Giàn khai thác, xử lý khí Hải Thạch (Lô 05-2) có tổng trọng lượng
lên tới 24 nghìn tấn (chân đế 11,2 nghìn tấn, khối thượng tầng 12,5
nghìn tấn).
4/ Hàng chục các giàn khai thác có tổng trọng lượng nằm trong dải từ 2
- 10 nghìn tấn (như giàn nén khí Sư Tử Trắng và các giàn khai thác
thuộc cụm mỏ Sư Tử Lô 15.1, các giàn BK tại khu vực mỏ Bạch Hổ, các giàn
khai thác mỏ Tê Giác Trắng Lô 16.1, mỏ Chim Sáo Lô 12W, mỏ Hải Sư Trắng
- Hải Sư Đen Lô 15-2, mỏ Rạng Đông - Phương Đông Lô 15-2, cụm mỏ tại
các Lô 01&02/17 và 01&02/97...). Ngoài ra:
5/ Về công trình nổi, PVN đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm qua
việc đóng mới, cải hoán và vận hành các kho nổi chứa dầu, công suất chứa
từ 350 nghìn - 1,2 triệu thùng dầu tại Lô 09.1, Lô 05-2&Lô 05-3, Lô
05-1b&05-1c, Lô 01&02/17, Lô 01&02/97, Lô 12W, Lô 11.2...
Đặc biệt, PVN còn xuất khẩu dịch vụ ra ngoài phạm vi lãnh thổ Việt
Nam và được các chủ đầu tư, nhà thầu quốc tế đánh giá rất cao như:
1/ Khối thượng tầng giàn công nghệ HRD (khối lượng khoảng 9 nghìn tấn) cho Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Ấn Độ (ONGC).
2/ Giàn khoan khai thác mỏ dầu lớn nhất của Qatar trong dự án Gallaf
(tổng khối lượng khoảng 26 nghìn tấn, trong đó có chân đế nặng tới 12
nghìn tấn và các khối thượng tầng khoảng 3,5 nghìn tấn mỗi khối).
3/ Dự án EPCC Maharaja Lela South tại Brunei cho Total E&P (khoảng 2 nghìn tấn)...
Đối với lĩnh vực điện gió ngoài khơi, tháng 9/2021, PTSC M&C đã
trúng thầu cung cấp 2 móng cho trạm biến áp của dự án điện gió ngoài
khơi Hải Long 2 và 3 tại Đài Loan, với công suất hơn 1 GW, dự kiến vận
hành trong năm 2025 - 2026. Năm 2023, PTSC đã trúng thầu 1 gói thầu cung
cấp toàn bộ chân đế tua bin cho 1 dự án điện gió ngoài khơi ở Đài Loan.
Hiện nay, PTSC đang tiếp tục tham gia chào thầu các gói thầu điện gió ngoài khơi tại Đài Loan, Nhật Bản, châu Âu.
PVN cũng rất giàu kinh nghiệm trong đầu tư, xây dựng, vận hành hệ
thống đường ống thu gom, vận chuyển khí tự nhiên (cả ngoài khơi và trên
bờ). Điển hình là các dự án đường ống Nam Côn Sơn và Nam Côn Sơn 2,
đường ống Lô B - Ô Môn (đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư), đường ống
Bạch Hổ - Dinh Cố, đường ống thu gom khí bể Cửu Long, cũng như các
đường ống nhánh, đường ống nội mỏ… (tổng cộng khoảng 2.500 km đường ống
hiện hữu).
Tính tương đồng giữa các dự án dầu khí và điện gió ngoài khơi:
Hiện nay, đối với lĩnh vực điện gió ngoài khơi, ngoài phần tua bin và
cáp điện ngầm do một số ít các công ty nước ngoài độc quyền về công
nghệ, nên Việt Nam chưa sản xuất được. Các phần còn lại đều tương đồng
về công nghệ với ngành dầu khí ngoài khơi.
Công trình dầu khí và điện gió ngoài khơi đều là các dự án với kết
cấu bằng thép được thi công chế tạo hoàn thiện trên bờ và lắp đặt ngoài
khơi. Các dự án điện gió ngoài khơi cũng phải thực hiện các công tác
thiết kế, mua sắm, chế tạo và thi công theo những yêu cầu khắt khe như
các công trình dầu khí, đảm bảo an toàn khi thi công xây lắp.
Tương tự như các giàn khoan dầu khí, các dự án điện gió ngoài khơi
cũng cần xây dựng phần móng cho các tua bin gió và các trạm biến áp trên
biển; rải và lắp đặt cáp ngầm kết nối hệ thống, cáp xuất điện... Khối
lượng và kích thước của các móng tua bin gió (chân đế tua bin gió chỉ
khoảng 0,8 - 1,2 nghìn tấn) khá nhỏ so với móng cho các dự án khai thác
dầu khí mà PVN đã thực hiện.
Trên thực tế, về chân đế giàn khoan dầu khí, PVN đã đóng tới 15 nghìn tấn và có khả năng đóng mới tới trên 20 nghìn tấn.
Còn khối lượng, kích thước cáp ngầm cũng tương tự như khối lượng,
kích thước cáp ngầm sử dụng tại các công trình dầu khí, nhưng dễ thi
công hơn nhiều so với công tác rải ống (xét về cả quy mô và độ phức
tạp).
Thế mạnh của PVN trong chuỗi cung ứng cho chuyên ngành điện gió ngoài khơi ở Việt Nam:
Thứ nhất: Giai đoạn khởi động, khảo sát:
PVN là doanh nghiệp duy nhất ở Việt Nam có các dữ liệu địa chất đáy
biển quốc gia được thu thập và lưu trữ trong quá trình khảo sát, tìm
kiếm, thăm dò dầu khí. PVN có năng lực cần thiết để cung cấp các dịch vụ
khảo sát (khảo sát đáy biển, khảo sát kỹ thuật vật lý…) là các hạng mục
công việc thực hiện thường xuyên trong hoạt động dầu khí và nghiên cứu
tiền khả thi dự án điện gió ngoài khơi.
Ví dụ, hiện tại Vietsovpetro đã trúng thầu và đang thực hiện công
việc khảo sát địa chất, môi trường cho dự án điện gió Lagan, PTSC ký kết
hợp đồng đo gió, sóng và dòng chảy cho dự án Thăng Long Wind...
Thứ hai: Giai đoạn xây dựng, lắp đặt nhà máy điện gió ngoài khơi. Cụ thể:
1/ Năng lực thiết kế: Với đội ngũ thiết kế dồi dào, chuyên nghiệp
được đào tạo chính quy thuộc các lĩnh vực kết cấu công trình, điện… được
trang bị các phần mềm chuyên dụng có bản quyền, PVN đã và đang thực
hiện toàn bộ các giai đoạn thiết kế từ công tác soạn thảo phương án,
thiết kế cơ sở, thiết kế chi tiết, thiết kế thi công cho các công trình
khai thác trên biển và hoàn toàn có thể đảm nhận các hạng mục thiết kế
cho các dự án điện gió ngoài khơi.
2/ Năng lực mua sắm: Tận dụng được mạng lưới mua sắm sẵn có với các
nhà sản xuất, nhà cung cấp trong lĩnh vực dầu khí, PVN có thể tìm kiếm
nguồn vật tư, thiết bị đầu vào với chất lượng tốt và giá thành cạnh
tranh khi tham gia vào lĩnh vực điện gió ngoài khơi.
3/ Năng lực thi công chế tạo: Hình dạng và khối lượng của các trụ
điện gió ngoài khơi tương tự đối với các kết cấu chân đế trong lĩnh vực
dầu khí, đặc biệt là đối với trụ điện gió dạng chân đế (jacket) và cọc
đơn (monopile). Với bề dày kinh nghiệm chế tạo số lượng lớn các chân đế
có khối lượng từ 5 - 20 nghìn tấn (so với chân đế tua bin điện gió ngoài
khơi chỉ khoảng 0,8 - 1,2 nghìn tấn), PVN có thể tận dụng được cơ sở
vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực và mạng lưới chuỗi cung ứng
hiện có để ngay lập tức tham gia thi công chế tạo số lượng lớn các trụ
điện gió ngoài khơi.
3/ Năng lực vận chuyển, lắp đặt biển: Với năng lực về phương tiện
nổi, trang thiết bị thi công và đội ngũ nhân lực giàu kinh nghiệm, PVN
đã khẳng định được vị trí hàng đầu của mình trong lĩnh vực vận chuyển,
lắp đặt các kết cấu, công trình ngoài khơi.
Thứ ba: Giai đoạn vận hành và bảo dưỡng (O&M) nhà máy điện gió:
PVN có thế mạnh về cơ sở vật chất, thiết bị, nhân lực và bề dày kinh
nghiệm, gần 40 năm trong vận hành, bảo dưỡng các công trình điện, cũng
như dầu khí biển như: Cơ sở cảng dịch vụ dầu khí, đội ngũ tàu hỗ trợ vận
hành trên biển, cơ sở sửa chữa bảo dưỡng trên bờ và nhân lực chất lượng
cao đã phục vụ O&M cho các công trình dầu khí có tính chất tương
đương điện gió ngoài khơi.
Bên cạnh đó, PVN cũng có kinh nghiệm vận hành và bảo dưỡng các nhà
máy điện khí, điện than, thuỷ điện, điện gió trên bờ. Vì vậy, PVN hoàn
toàn đảm bảo năng lực để vận hành và bảo dưỡng các nhà máy điện gió
ngoài khơi của Việt Nam trong tương lai tới./.
BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Nguồn:https://nangluongvietnam.vn/noi-luc-cua-pvn-trong-chuoi-cung-ung-dien-gio-ngoai-khoi-viet-nam-30721.html