Việt Nam đã cam kết với quốc tế giảm phát thải khí carbonic về không
(Net-zero) vào năm 2050. Các nguồn điện gió trên bờ, gần bờ và ngoài
khơi dự tính sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tồng nguồn phát điện vào
năm 2045 (theo Dự thảo Quy hoạch điện VIII). Phát triển điện gió ngoài
khơi, ngoài việc khai thác tiềm năng to lớn về năng lượng còn đảm bảo
thực hiện tầm nhìn phát triển kinh tế biển... Phân tích của chuyên gia
Tạp chí Năng lượng Việt Nam.
Sự cần thiết phải xây dựng phát triển đột phá nguồn điện gió ngoài khơi Việt Nam:
Trong tương lai gần, ngành điện Việt Nam ngày càng gặp nhiều thách
thức trong việc đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Một số thách thức
lớn đối với ngành điện như: Nhu cầu điện đang và sẽ tăng trưởng cao,
nguồn năng lượng sơ cấp đang dần cạn kiệt dẫn đến sớm phải nhập khẩu
nhiên liệu… Xu hướng phát triển năng lượng tái tạo trên thế giới, trong
đó có điện gió ngoài khơi là giải pháp đột phá.
Để có được những định hướng chiến lược đúng đắn nhất cho việc phát
triển, tận dụng nguồn năng lượng từ biển, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược Phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
(Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018), Nghị quyết đã đưa ra các đột
phá về phát triển kinh tế biển, trong đó tại vị trí số 6 có nhấn mạnh về
“Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới”.
Ngày 11/2/2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc
gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với nội dung: “…. Xây
dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió
ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam”.
Với mục tiêu đáp ứng nhu cầu điện, đảm bảo an ninh năng lượng, đa
dạng hóa nguồn điện và cung cấp điện ổn định, tin cậy, đáp ứng nhu cầu
phát triển KT-XH và an ninh quốc phòng của đất nước, việc xây dựng chiến
lược phát triển đột phá nguồn điện gió ngoài khơi (ĐGNK) Việt Nam ngang
tầm công nghệ của khu vực và thế giới là hết sức cần thiết.
Tiềm năng nguồn ĐGNK Việt Nam:
Với hơn 3.000 km bờ biển, bán kính từ 10 - 120 km, tính từ đường mép
nước biển thấp nhất trong 18,6 năm, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng và
thuận lợi để phát triển công nghiệp điện gió ngoài khơi.
Tiềm năng điện gió ngoài khơi hiện chưa được tiến hành đánh giá đầy
đủ. Theo số liệu đánh giá tiềm năng về lý thuyết - kỹ thuật của Ngân
hàng Thế giới: Công suất điện gió ngoài khơi của Việt Nam khoảng 475 GW,
trong đó tập trung chủ yếu vùng Trung bộ, Nam Trung bộ và một phần
duyên hải Bắc bộ.
Theo nghiên cứu của Cơ quan Năng lượng Đan Mạch (DEA) cho Bộ Công
Thương (năm 2020): Qua phân tích và tính toán, tiềm năng kỹ thuật cho
điện gió ngoài khơi của Việt Nam có thể đạt 31.808 km2 tương đương
162.200 MW. Chi tiết tiềm năng kỹ thuật cho điện gió ngoài khơi được
phân theo khu vực như sau:
- Khu vực Bắc bộ: 13.000 MW.
- Khu vực Bắc Trung bộ: 5.000 MW.
- Khu vực Nam Trung bộ: 118.000 MW.
- Khu vực Nam bộ: 26.200 MW. Trong đó điện gió ngoài khơi móng cố
định (độ sâu đáy biển ≤50 m) khoảng 132 GW và móng nổi khoảng 30 GW.
Kế hoạch đấu nối nguồn điện gió ngoài khơi vào hệ thống điện:
Nguyên lý chung để truyền tải điện năng từ nhà máy điện đến các hộ
phụ tải, phương pháp truyền thống vẫn là sử dụng hệ thống đường dây dẫn
vật liệu kim loại, á kim, hoặc vật liệu siêu dẫn. Điện áp truyền tải là
điện áp xoay chiều cao áp, hoặc siêu cao áp, và điện một chiều điện áp
cao (HVDC - High Voltage Direct Current). Ngày nay, hệ thống truyền tải
HVDC là phần không thể thiếu trong hệ thống điện của nhiều quốc gia trên
thế giới. Cùng với việc ra đời các van điện tử công suất có điều khiển
(Thyristor, GTO, IGBT…) đã làm cho công nghệ truyền tải điện một chiều
có tính khả thi cao. Truyền tải HDVC luôn được xem xét khi phải tải
lượng công suất rất lớn đi khoảng cách xa, liên kết giữa các hệ thống
điện không đồng bộ, hoặc xây dựng các đường cáp điện vượt biển.
Phương án phát triển lưới điện truyền tải trong dự thảo Quy hoạch
điện VIII đã cân nhắc những công nghệ truyền tải điện năng nêu trên,
trong tổng thể cân bằng công suất và điện năng theo từng loại hình nguồn
điện và theo từng vùng, miền địa lý. Trên cơ sở tối thiểu hóa chi phí
toàn hệ thống, phương án phát triển lưới điện truyền tải sẽ tạo ra các
“hành lang” giải phóng công suất cho các loại hình nguồn điện theo từng
khu vực, bao gồm cả nguồn điện gió ngoài khơi.
Tác động của điện gió ngoài khơi đến môi trường:
Nội dung này liệt kê một số tác động tích cực và tiêu cực chính của
điện gió ngoài khơi, từ đó đưa ra một vài khuyến nghị để giảm thiểu các
tác động bất lợi, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao vị
thế của Việt Nam trên lĩnh vực năng lượng tái tạo nói chung, cũng như
điện gió ngoài khơi nói riêng.
Tác động tích cực:
1/ Điện gió ngoài khơi được coi là giải pháp đột phá nhằm đảm bảo an
ninh năng lượng quốc gia, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn nhiên liệu
nhập khẩu, giảm phát thải chất ô nhiễm do đốt nhiên liệu hóa thạch và
khí nhà kính.
2/ Trong giai đoạn (như chuẩn bị, xây dựng và tháo dỡ) sẽ tạo thêm
hàng trăm nghìn việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương và cải thiện đời sống của người dân. Khi các nhà máy ĐGNK đi vào
hoạt động tạo thêm việc làm chất lượng cao từ nguồn nhân lực trong nước.
3/ Cấu trúc móng dưới nước của các tua bin gió ngoài khơi có thể hoạt
động như các rạn san hô nhân tạo, thu hút một số loài nhuyễn thể và cá
nhỏ, tác động trực tiếp đến chuỗi thức ăn của các loài sinh vật lớn. Hệ
sinh thái biển sẽ dần được phục hồi và trở thành khu bảo tồn thiên
nhiên.
Tác động tiêu cực:
1/ Gây ra một số tranh chấp với các hoạt động phát triển như đánh bắt
cá, nuôi trồng thủy hải sản, khai thác dầu khí, giao thông thủy, hàng
không, quân sự…
2/ Làm phân mảnh, hoặc thay đổi môi trường sống của các loài động
sinh vật biển do các tác động của điện từ trường, tiếng ồn và sóng âm...
3/ Chi phí sản xuất điện gió ngoài khơi cao hơn các nguồn điện khác.
4/ Các công trình ĐGNK có thể gây nhiễu, hoặc mất tín hiệu rađa, làm phát sinh thêm các vấn đề về an ninh khác.
5/ Các tuyến cáp ngầm dưới biển đấu nối với các trụ tua bin và hệ
thống trạm điện xa phụ tải (hệ thống truyền tải điện quốc gia) có khi
lên đến hàng trăm kilomet, do đó, nếu không quản lý chặt chẽ sẽ xảy ra
nhiều sự cố, đặc biệt là hiện tượng đứt cáp…
Kế hoạch hành động thực hiện mục tiêu “vươn ra biển lớn”:
Để đạt được mục tiêu “vươn ra biển lớn” bằng con đường phát triển
năng lượng gió ngoài khơi Việt Nam, chúng ta cần có một chương trình
nghiên cứu về điện gió ngoài khơi, đào tạo nhân lực và chuyển giao công
nghệ, đồng thời cần sự hợp tác chặt chẽ với các nước đang có thế mạnh về
phát triển nguồn điện gió ngoài khơi, giữa các bộ, ngành, địa phương.
Quá trình chuyển dịch năng lượng đang diễn ra trên toàn cầu, đòi hỏi
sự đổi mới công nghệ toàn diện với xu hướng sử dụng năng lượng tiết
kiệm, hiệu quả và thay đổi nguồn nhiên liệu trong sản xuất. Đây là cơ
hội lớn để công nghệ điện gió ngoài khơi thể hiện vai trò quan trọng của
mình trong sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước trong giai đoạn
đến năm 2050 - “Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư 4.0”.
Một số mục tiêu trước mắt cần thiết phải tiến hành:
Thứ nhất: Xây dựng quy hoạch tổng thể cấp quốc gia về phát triển điện gió ngoài khơi, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thứ hai: Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia với các nguồn điện gió ngoài khơi.
Thứ ba: Thúc đẩy việc sản xuất, nội địa hóa thiết bị cho việc phát triển và sử dụng các nguồn điện gió ngoài khơi.
Thứ tư: Xây dựng kế hoạch hợp tác ngắn và dài hạn với các tổ chức
quốc tế trong việc phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và tập huấn về
nguồn điện gió ngoài khơi.
Thứ năm: Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận
thức của người dân, cộng đồng về phát triển và sử dụng năng lượng gió
ngoài khơi.
Thứ sáu: Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng gió ngoài khơi.
Thứ bảy: Xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát
triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển
Việt Nam./.
NGUYỄN ANH TUẤN (B) - THƯỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Nguồn: https://nangluongvietnam.vn/dien-gio-ngoai-khoi-tiem-nang-thach-thuc-va-ke-hoach-hanh-dong-cua-viet-nam-29248.html