Khởi tạo dự án điện gió ngoài khơi
Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển dài hơn 3.200 km, chưa kể quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các tiểu hải đảo. Đây là một lợi thế về
nguồn tài nguyên năng lượng.
Theo số liệu
đánh giá tiềm năng về lý thuyết - kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới, công
suất điện gió ngoài khơi của Việt Nam khoảng 475 GW. Trong một số nghiên
cứu của tổ chức khác, tiềm năng gió ngoài khơi Việt Nam có thể đạt đến
hơn 900 GW, tập trung chủ yếu vùng Trung bộ, Nam Trung bộ và một phần
duyên hải Bắc bộ.
Dự thảo Quy hoạch phát
triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2045 (gọi tắt
là Quy hoạch điện 8) đang được Bộ Công Thương rà soát, hoàn thiện. Theo
đó, dự kiến huy động công suất điện gió ngoài khơi theo phương án điều
hành phụ tải cao từ năm 2030 đến 2050 và nhu cầu điện toàn quốc như sau:
Để khởi tạo một dự án điện gió ngoài khơi, bước đầu tiên cần thực hiện:
- Đánh giá sơ bộ khu vực dự án thông qua dữ liệu quốc gia và các tổ
chức khác. Tham chiếu thông tin từ Quy hoạch phát triển điện lực, Quy
hoạch không gian biển, các quy hoạch chuyên ngành liên quan và những
khuyến nghị của địa phương có tiềm năng điện gió ngoài khơi.
- Xin cấp Giấy phép khảo sát, thu thập dữ liệu, lập hồ sơ đề xuất đầu
tư (hoặc báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (PreFS), xin chấp thuận chủ
trương đầu tư, chứng nhận đầu tư thực hiện dự án.
Kỳ vọng vào nội dung Nghị định dự thảo, sửa đổi một số điều của Nghị
định số 11/2021/NĐ- CP của Chính phủ quy định việc giao các khu vực biển
nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển và
Nghị định số 40/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, sớm được ban
hành trong năm 2023. Đây là cột mốc khá quan trọng, trong giai đoạn này,
các nhà đầu tư nên xây dựng lộ trình cho chính mình nhằm: Chứng minh về
năng lực tài chính (có sự đảm bảo của các tổ chức tài chính), năng lực
kỹ thuật, uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế; Thể hiện rõ
quyết tâm thực hiện dự án qua cam kết tỷ lệ nội địa hóa chuỗi cung ứng
trong quá trình thực hiện dự án, nghiên cứu khung giá bán điện.
Đề xuất Hồ sơ khảo sát, thể hiện sự hiểu biết về các hoạt động khảo sát
và ảnh hưởng của các hoạt động này đến tự nhiên, môi trường và xã hội.
Sau khi đã được cấp phép khảo sát, cần tiến hành lắp đặt các trạm đo số
liệu ngoài khơi, thực hiện khảo sát thăm dò, phân tích số liệu, chuẩn bị
hồ sơ đề xuất dự án và trình thủ tục xin Quyết định đầu tư và Giấy
chứng nhận đầu tư.
Chưa có ý kiến chỉ đạo cụ thể
Trong thời gian gần đây, xuất hiện nhiều báo cáo nghiên cứu từ các tổ
chức nước ngoài, các cuộc hội thảo quốc tế với nhiều quan điểm xoay
quanh câu chuyện lộ trình và cách thức thực hiện điện gió ngoài khơi tại
Việt Nam.
Tuy nhiên, Chính phủ vẫn chưa có ý
kiến chỉ đạo cụ thể liên quan. Các bộ, ngành khá thận trọng khi tiếp
nhận các hồ sơ xin chủ trương đầu tư trong lĩnh vực năng lượng điện gió
ngoài khơi. Thật khó khăn khi chúng ta kinh nghiệm còn rất ít trong lĩnh
vực này.
Một vài mối quan tâm liên quan đến phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam:
Một là,
khung pháp lý: Chính phủ chưa ban hành văn bản Luật, Nghị định, Thông
tư liên quan đến phát triển điện gió ngoài khơi; Quy hoạch phát triển
điện quốc gia và quy hoạch không gian biển đang được hoàn thiện.
Hai là,
cơ chế chính sách: Cơ quan quản lý nhà nước chưa hoàn thiện việc xây
dựng các hướng dẫn kỹ thuật, quy trình, cơ chế hỗ trợ thực hiện dự án
điện gió ngoài khơi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Ba là,
đối với các dự án năng lượng mới nói chung và nguồn điện gió ngoài khơi
nói riêng rất cần tiếp tục cơ chế khuyến khích và giá mua điện thích
hợp từ Chính phủ.
Bốn là, phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, giá bán điện tương ứng với tốc độ phát triển
kinh tế, đáp ứng nhu cầu sử dụng điện và phải đảm bảo an ninh năng
lượng.
Năm là, trung tâm phụ tải tập trung ở
Vùng đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ trong khi vùng tiềm năng điện gió ngoài
khơi tập trung chủ yếu ở khu vực biển Nam Trung bộ, nơi có tốc độ và
thời gian gió tốt nhất. Mặt khác, dải đất miền Trung chật hẹp, chỉ tập
trung vai trò phát triển du lịch biển, hải đảo, hạn chế việc phát triển
thêm trục truyền tải điện Bắc - Nam. Nhưng điều đáng quan tâm đó là việc
phát triển lưới điện truyền tải đồng bộ để đón nhận công suất của các
Trung tâm năng lượng tái tạo trong tương lai.
Sáu là,
các trung tâm năng lượng điện gió ngoài khơi khi tham gia vào Hệ thống
điện quốc gia, cần thiết xây dựng mô hình vận hành phù hợp, đảm bảo độ
tin cậy và an toàn đối với hệ thống điện. Theo đó, cần phải thiết đầu tư
các nhà máy lưu trữ năng lượng (Green Energy Storage plant) hoặc các cơ
sở sản xuất khí tự nhiên bên cạnh việc phát triển điện gió ngoài khơi
là điều kiện bắt buộc nhằm đảm bảo tính điều hòa trong hệ thống và đảm
bảo an ninh năng lượng.
Bảy là, cần
nhận định rằng phát triển điện gió ngoài khơi là một lộ trình dài, có sự
chuẩn bị kỹ lưỡng từ tất cả các bên. Đặc biệt, Chính phủ và các cơ quan
quản lý nhà nước nắm vai trò rất lớn, đưa ra những quyết sách có tầm
ảnh hưởng đến an ninh năng lượng của đất nước và những ảnh hưởng kinh
tế, xã hội trong tương lai. Vì vậy, sự cẩn trọng trong quá trình thụ lý,
thẩm định hồ sơ là rất cần thiết.
Tám là,
nhà đầu tư nên chuẩn bị kỹ cho các khung pháp lý về đầu tư điện gió
ngoài khơi tại Việt Nam và bắt đầu tìm kiếm tiềm năng chuỗi cung ứng nội
địa ngay từ thời điểm này.
Chín là, chuẩn bị hồ sơ đấu thầu cạnh tranh, đảm bảo tính khả thi của dự án khi khung pháp lý và chính sách đã sẵn sàng.
Từ kiến thức và kinh nghiệm quốc tế ở các cuộc hội thảo cho thấy, ở các
nước phương Tây, quá trình chuyển đổi năng lượng và giai đoạn khởi tạo
của việc phát triển điện gió ngoài khơi cần nhiều thời gian. Vì vậy, tại
thời điểm này, các bên nên kiên nhẫn và làm tốt công việc chuẩn bị cho
những bước tiếp theo.
PECC3
Nhóm Điện gió ngoài khơi
Cty CP Tư vấn xây dựng Điện 3
Nguồn: https://www.moitruongvadothi.vn/dien-gio-ngoai-khoi-tiem-nang-nguon-nang-luong-moi-va-nhung-moi-quan-tam-a118612.html