Tiềm năng và lợi ích của nhiên liệu ‘amoniac xanh’ là rất lớn. Nhưng
câu hỏi đặt ra là: Khi nào thì nguồn năng lượng này mới khả thi về mặt
kỹ thuật và thương mại? Tổng hợp của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt
Nam.
Nhu
cầu năng lượng tiếp tục gia tăng, trong đó khí tự nhiên không thể thiếu
trong cấu trúc nguồn năng lượng thế giới đến năm 2050. Trong các loại
nhiên liệu mới cho chuyển dịch năng lượng, amoniac xanh lá cây (green
amonia) được xem là ứng viên sáng giá thay thế than và khí tự nhiên,
giúp nhân loại có thể đạt mục tiêu ‘net - zero’ vào năm 2050.
Đôi nét về amoniac xanh:
Theo Hiệp hội Năng lượng Amoniac Thế giới: Mức sản xuất
amoniac hiện đang đạt khoảng 200 triệu tấn mỗi năm, trong đó khoảng 10%
được giao dịch trên thị trường toàn cầu. Gần 98% nguyên liệu để sản xuất
amoniac có nguồn gốc từ nhiên liệu hóa thạch, trong đó 72% sử dụng khí
tự nhiên làm nguyên liệu.
Theo hãng công nghệ hóa chất Stamicarbon của Hà Lan, EU đã
đề ra mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 (net-zero) vào năm 2050. Để
đáp ứng mục tiêu này, công nghệ amoniac xanh Stami của Stamicarbon có
thể đóng một vai trò quan trọng để giảm phát thải.
Theo Stamicarbon: 80% lượng amoniac toàn cầu được sử dụng
làm nguyên liệu sản xuất phân đạm. Khoảng 180 triệu tấn amoniac đã được
sản xuất vào năm 2019 để đáp ứng nhu cầu nói trên. Ngoài ra, amoniac còn
đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất thực phẩm, tuy nhiên, việc
sản xuất amoniac gây ra 1% tổng lượng phát thải khí nhà kính (KNK) toàn
cầu. Điều này chủ yếu là do sản xuất amoniac truyền thống sử dụng nhiên
liệu hóa thạch (như than, hoặc khí tự nhiên) làm nguyên liệu.
Nhưng, điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta có thể phát triển
amoniac mà không cần nhiên liệu hóa thạch? Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng
ta có thể làm cho amoniac có màu xanh lá cây chỉ bằng cách sử dụng mặt
trời, không khí và nước? Ứng viên tiềm năng cho trả lời là amoniac xanh
lá cây - được tạo ra từ các yếu tố tự nhiên (năng lượng gió, mặt trời,
hydro từ nước và nitơ từ không khí), thay vì nhiên liệu hóa thạch. Do
đó, nó thể hiện một bước tiến nhảy vọt đáng kể cho sự bền vững trong
ngành phân bón, đồng thời mang đến cơ hội cho thị trường nhiên liệu năng
lượng trong tương lai.
Amoniac xanh lá cây được sản xuất bằng cách sử dụng điện
phân nước để tạo ra hydro và thu nitơ từ không khí. Nhiệt độ và áp suất
cần thiết cho phản ứng hydro-nitơ trong vòng tổng hợp amoniac sẽ được
cung cấp từ năng lượng bền vững, chẳng hạn như năng lượng gió, mặt trời.
Đầu ra là amoniac phi cacbon.
Cần lưu ý, amoniac được phân loại là ‘xanh lam’, khi nó
được sản xuất từ nguyên liệu khí đốt tự nhiên và CO2 thải ra được thu
giữ bằng công nghệ CCS/CCUS, hoặc nó có thể được dán nhãn là ‘xanh lá
cây’, khi nó được tạo ra từ quá trình điện phân dùng năng lượng tái tạo
(NLTT). Sự tăng trưởng liên tục trong sản xuất khí và dòng LNG đã cho
phép các nhà sản xuất khí và các ngành công nghiệp mở rộng sản xuất
amoniac xanh lam. Theo đó, sự tăng trưởng trong sản xuất amoniac và sự
suy giảm cường độ carbon của nó là phù hợp với các mục tiêu toàn cầu về
chuyển đổi nhiên liệu.
Hiện nay, amoniac được hưởng nhiều lợi thế do là nguyên
liệu cho sản xuất phân bón. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng phát triển tốt và
các cơ sở sản xuất amoniac quy mô lớn có sẵn trên khắp thế giới, làm
cho việc sản xuất trở nên khả thi hơn.
Hydro cũng là nhiên liệu tiềm năng cho chuyển đổi năng
lượng, khi nó sẽ được sử dụng trong các tua bin phát điện vốn đang chạy
bằng khí tự nhiên.
Một thách thức đáng kể đối với hydro là chi phí cho lưu trữ
cao, yêu cầu lớn về độ tinh khiết và cần vận chuyển bằng thiết bị
chuyên dụng đặc biệt. So với hydro, amoniac không yêu cầu làm lạnh đến
nhiệt độ cực đoan và cũng có mật độ năng lượng cao hơn hydro lỏng, giúp
vận chuyển và lưu trữ dễ dàng hơn, cho thấy amoniac có thể dễ dàng trở
thành một lựa chọn cạnh tranh như một giải pháp để khử cacbon trong
ngành công nghiệp - nơi năng lượng được sử dụng nhiều, nhất là trong
lĩnh vực phát điện và giao thông vận tải.
Tuy nhiên, amoniac lại phải đối mặt với những thách thức
nhất định. Chẳng hạn như độc tính và tính ăn mòn lớn, do sản xuất thông
qua oxit nitơ, khả năng dễ cháy trong động cơ và tua bin truyền thống.
Cụ thể, nhiệt độ bắt lửa cao và tốc độ ngọn lửa thấp, sản xuất amoniac
xanh ở quy mô thương mại rất tốn kém do chi phí vốn của nhà máy điện
phân để sản xuất hydro chiếm phần đáng kể.
Amoniac xanh - nhiên liệu sạch cho tương lai:
Theo Tổng quan khí đốt toàn cầu đến 2050 (Global Gas
Outlook 2050) vừa được công bố tại Diễn đàn các nước xuất khẩu khí đốt
(GECF): Nhu cầu về khí đốt tự nhiên dự kiến sẽ tăng 50%, từ 3.950 tỷ mét
khối năm 2019 lên 5.920 tỷ mét khối vào năm 2050. Do đó, khí tự nhiên
sẽ là một phần không thể thiếu, trong nguồn cung cấp năng lượng cho thế
giới trong tương lai.
Tiến sĩ Hussein Moghaddam - chuyên gia cấp cao về năng
lượng thuộc Ban Thư ký GECF, thành viên soạn thảo Tổng quan nói trên cho
hay: Amoniac xanh đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi
sang nhiên liệu sạch. Còn các nhà sản xuất khí tuy coi khí tự nhiên như
một véc tơ của quá trình chuyển đổi năng lượng, nhưng bắt đầu coi hydro
sẽ là nhiên liệu quan trọng cho quá trình khử cacbon bền vững trên quy
mô toàn cầu.
Cùng với hydro, amoniac xanh cũng nổi lên như một nhiên
liệu quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế các-bon thấp. Năm 2021, GECF đã
phát triển “Kịch bản về hydro”, cũng như “Kịch bản trung hòa cacbon”. Từ
hai kịch bản này, một loạt các giải pháp thực hiện đã được đưa ra nhằm
hướng tới khử cacbon, như dùng hydro xanh lam, amoniac xanh và ứng dụng
thu giữ, sử dụng và lưu trữ cacbon (CCUS).
Kết quả ban đầu cho thấy: Amoniac xanh có tiềm năng làm
nhiên liệu trong tương lai cho các ngành hàng hải và sản xuất điện. Các
nước thành viên GECF được xem là “hậu phương” vững chắc về nguồn cung
cấp amoniac xanh. Hiện tại, amoniac là một trong những hóa chất đóng góp
lớn nhất cho nền kinh tế của Trinidad và Tobago. Đất nước này có 11 nhà
máy amoniac, với tổng công suất 5,2 triệu tấn năm, đưa Trinidad và
Tobago trở thành một trong những nhà xuất khẩu amoniac lớn nhất hành
tinh.
Một dự án mới: Nga và Nhật Bản đang có kế hoạch hợp tác
nghiên cứu khả năng vận chuyển amoniac xanh lam được sản xuất ở Siberia
của Nga để sử dụng tại các nhà máy điện than ở Nhật Bản. CO2 phát sinh
từ quá trình sản xuất sẽ được thu gom và bơm vào các mỏ dầu phía Đông
Siberi để tăng cường thu hồi dầu.
Amoniac xanh - ứng viên có thể giúp đạt mục tiêu ‘net-zero’ vào năm 2050:
Không chỉ có Liên minh châu Âu (EU) mà nhiều quốc gia trên
thế giới đã đặt mục tiêu đạt mức phát thải ròng ‘net - zero’ vào năm
2050, như đã cam kết trong Thỏa thuận Paris. Công nghệ amoniac xanh đã
nổi lên như một trong những nhiên liệu thay thế triển vọng để khử
cacbon.
Trong ngành vận tải biển: Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO)
đặt mục tiêu giảm 40% phát thải KNK vào năm 2030 và tăng tiếp lên 70%
vào năm 2050 so với mức năm 2008, cuối cùng loại bỏ hoàn toàn tất cả các
dạng phát thải có hại. Bắt đầu từ tháng 1/2020, kế hoạch này đã được
triển khai quyết liệt, IMO yêu cầu ngành vận tải biển phải có nghĩa vụ
hạn chế hàm lượng lưu huỳnh trong nhiên liệu.
Để đáp ứng tham vọng của IMO về giảm phát thải khí nhà
kính, nhu cầu nhiên liệu thay thế đang được cân nhắc và thay thế triệt
để, amoniac xanh được xác định là một trong những giải pháp quan trọng
trong lộ trình dài hạn của ngành vận tải biển hướng tới các mục tiêu khử
cacbon.
Ứng dụng khác của amoniac là đồng đốt với than trong các
nhà máy nhiệt điện than dùng để giảm phát thải cacbon. Nhật Bản đang đặt
mục tiêu tăng cường sử dụng amoniac để đạt được mục tiêu khử cacbon vào
năm 2050.
Vào tháng 9/2020, lô hàng amoniac đầu tiên thế giới được
gửi từ Ả Rập Xê Út đến Nhật Bản để sử dụng trong sản xuất điện. Sản phẩm
nói trên của Ả Rập Xê Út được sản xuất trong một nhà máy khí tự nhiên,
trong đó khí tự nhiên đã được sử dụng để sản xuất hydro và sau đó kết
hợp với nitơ để tạo ra amoniac xanh lam.
Theo Viện Kinh tế Năng lượng Nhật Bản (JIEE): Amoniac xanh
rất quan trọng để duy trì sự cân bằng giữa môi trường và nền kinh tế,
trong bối cảnh Nhật Bản đang có tham vọng duy trì phát thải carbon bằng
zero. Dự báo, khoảng 10% điện năng mỗi năm của Nhật Bản có thể được tạo
ra bằng cách sử dụng 30 triệu tấn amoniac xanh.
Khi nào thì ‘nhiên liệu amoniac xanh’ khả thi về mặt kỹ thuật và thương mại?
Tiềm năng, lợi ích của ‘nhiên liệu amoniac xanh’ là rất lớn
và câu hỏi dư luận quan tâm là khi nào thì nguồn năng lượng này mới khả
thi về mặt kỹ thuật và thương mại?
Để trả lời câu hỏi này, trung tuần tháng 8/2021, Tập đoàn
dầu khí BP của Anh cho hay: Việc sản xuất hydro và amoniac xanh trên quy
mô lớn hiện đã khả thi về mặt kỹ thuật ở Australia.
Kết luận này của BP đưa ra trên nghiên cứu khả thi được Cơ
quan Năng lượng Tái tạo Australia, hãng năng lượng mặt trời Lightsource
BP và công ty dịch vụ chuyên nghiệp GHD Advisory hỗ trợ.
BP, GHD Advisory đã nghiên cứu chuỗi cung ứng hydro, thị
trường nội địa, cũng như xuất khẩu theo các quy mô khác nhau và phát
hiện thấy amoniac xanh được tạo ra thông qua sự kết hợp của hydro xanh,
nitơ từ không khí. Amoniac sau đó có thể được sử dụng như một “chất mang
hydro” và sẽ đưa vào sản xuất thương mại từ năm 2030.
BP nhấn mạnh thêm: Australia là một nơi lý tưởng để mở rộng
quy mô sản xuất hydro xanh và amoniac xanh trong tương lai, đặc biệt là
miền Tây Australia.
Còn theo Hiệp hội Hóa học Hoàng gia Anh (RSC): Amoniac xanh
được sản xuất bằng cách sử dụng hydro từ quá trình điện phân nước bởi
NLTT (gió và mặt trời). Dự báo amoniac xanh sẽ có mặt trên thị trường
vào năm 2030 bằng phương pháp sản xuất thông thường.
Dự báo này của RSC được dựa vào nghiên cứu phân tích ở 534
địa điểm ở 70 quốc gia và tối ưu hóa sự kết hợp của nguồn năng lượng tái
tạo (gió và mặt trời), thiết kế nhà máy sản xuất amoniac xanh và hoạt
động của nó để giảm thiểu chỉ số LCOA (chi phí cân bằng, hay chi phí san
bằng của amoniac).
Dự báo cũng xem xét tới các rủi ro tài chính theo từng quốc
gia cụ thể dựa trên những địa điểm có tiềm năng năng lượng khác nhau.
Hiện tại, có thể đạt mức LCOA là 473 USD/tấn, nhiều địa điểm được dự
đoán sẽ đạt được mức LCOA dưới 350 USD/tấn vào năm 2030, với sử dụng các
máy điện phân.
Các chuyên gia năng lượng của JIEE cho rằng: Amoniac xanh
có tiềm năng quan trọng trong việc chuyển đổi năng lượng toàn cầu sang
hệ thống năng lượng xanh và ít CO2 hơn. Sự có mặt của Amoniac xanh được
xem là “động lực xanh hóa ngành công nghiệp năng lượng toàn cầu”.
Cho dù amoniac là xanh lam, hay xanh lá cây đều có tác dụng tích cực đến kinh tế, môi trường và sức khỏe con người.
Việt Nam đã sản xuất amoniac ‘xanh lam’ từ năm 2004:
Sản xuất amoniac không còn mới đối với ngành hóa chất Việt
Nam. Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo) mà người dân
quen gọi là Đạm Phú Mỹ đã sản xuất amoniac từ khi thành lập (năm 2004).
Năm 2021, sản lượng amoniac của PVFCCo đạt 540.000 tấn. Trong đó, từ năm
2018 nhờ phân xưởng mở rộng, lượng amoniac không những đủ cho sản xuất
phân urê của Công ty mà còn cung cấp cho thị trường.
Xung đột Nga - Ukraine làm cho các nhà máy sản xuất amoniac
trên thế giới thiếu nguồn khí tự nhiên, nên giá amoniac tăng cao tới
851 USD/tấn (FOB) vào tháng 7/2022.
Hồi tháng 8/2022, tại Hà Nội, ông Kim Sung Won - Tổng Giám
đốc Công ty GS Energy (Hàn Quốc) đã đề xuất với lãnh đạo Tập đoàn Dầu
khí Việt Nam (PVN) thử nghiệm Blue Ammonia (nhiên liệu amoniac xanh lam)
trong các nhà máy nhiệt điện than.
Cụ thể, đối tác Hàn Quốc đề xuất việc hợp tác, hỗ trợ PVN,
cũng như Chính phủ Việt Nam sử dụng nhiên liệu amoniac xanh lam để dần
thay thế nhiên liệu than trong sản xuất điện - tức là nguồn sản xuất
amoniac vẫn là khí tự nhiên như hiện nay Đạm Phú Mỹ đang sản xuất, hoặc
khí tự nhiên hóa lỏng LNG.
Tuy chưa xanh hẳn, nhưng nếu ngành sản xuất đạt quy mô lớn,
với các thông số tối ưu, sẽ có thể cung cấp lượng amoniac đủ để có thể
làm nhiên liệu phát điện (tất nhiên với giá điện khá cao).
Những đề xuất về amoniac xanh lá cây thường đến từ các dự
án điện gió ngoài khơi (ĐGNK). Các dự án này dự kiến sẽ chủ yếu bán điện
qua đường truyền tải vào bờ và tận dụng lúc phụ tải điện thấp để sản
xuất khí hydro, hoặc dành riêng một số tua bin gió cho sản xuất điện để
điện phân tạo hydro. Rồi từ hydro sẽ tổng hợp amoniac.
Con đường tiến tới amoniac xanh lá cây ở Việt Nam chắc chắn
còn dài, vì theo Quy hoạch điện VIII, các dự án ĐGNK với quy mô tổng
công suất 6.000 MW vào năm 2030 còn đang gặp rất nhiều khó khăn để triển
khai, nhiều yếu tố về khung pháp lý còn thiếu cho việc khảo sát vùng
biển, cho đấu thầu các dự án tiềm năng để chọn nhà đầu tư...
Các chuyên gia về ĐGNK đã lưu ý: Ước tính thời gian thực hiện đầu tư xây dựng để hoàn thành một dự án ĐGNK cần từ 6 đến 8 năm.
Thách thức về công nghệ đồng đốt, chi phí nhiên liệu và chính sách giá điện của Việt Nam:
Trong Quy hoạch điện VIII, để chuyển đổi dần từ nhiên liệu
hóa thạch sang nhiên liệu không phát thải khí nhà kính, nhằm đáp ứng cam
kết Net zero vào năm 2050 của Việt Nam, các nhà máy nhiệt điện than sau
20 năm vận hành sẽ định hướng phải chuyển dần sang đốt sinh khối, hoặc
amoniac khi giá thành các nhiên liệu đó phù hợp.
Tại cuộc họp bàn triển khai thực hiện lộ trình chuyển đổi
năng lượng được nêu trong Quy hoạch điện VIII giữa Bộ Công Thương với
các chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện than mới đây, ông Nguyễn Tài Anh -
Phó tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết: Hiện EVN
đang quản lý, vận hành 15 nhà máy nhiệt điện than với 36 tổ máy, có tổng
công suất đặt 12.633 MW. Trong đó, có 2 tổ máy đã vận hành hơn 20 năm,
với công suất 600 MW; 4 tổ máy đã vận hành gần 40 năm, với tổng công
suất 440 MW; 4 tổ máy vận hành gần 50 năm, với tổng công suất 100 MW.
Đến năm 2030, EVN có thêm 4 tổ máy vận hành hơn 20 năm với tổng công
suất 1.230 MW.
Hiện EVN đã và đang tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm và có
kế hoạch chuyển đổi với một số tổ máy của nhà máy như: Uông Bí mở rộng
(tổ máy S7), Quảng Ninh (S1, S2) với loại nhiên liệu dự kiến sinh khối,
ammoniac…
Nhưng khó khăn chính là công nghệ đốt trộn amoniac hiện nay
trên thế giới chưa hoàn thiện (mới trong giai đoạn thử nghiệm). Chưa có
nhà máy điện nào ở Việt Nam cải tiến, thử nghiệm đồng đốt amoniac và có
đánh giá về tính kinh tế, kỹ thuật, cũng như các ảnh hưởng tác động đến
con người, môi trường, thiết bị.
Mặt khác, hiện nay khả năng cung cấp nhiên liệu ammoniac,
hay sinh khối ở trong nước còn hạn chế, chưa đảm bảo nguồn cung để vận
hành lâu dài và ổn định.
Ý kiến của TKV, Tổng công ty Phát điện 1, 2, 3 cùng một số
chủ đầu tư khác đều băn khoăn về giá nhiên liệu sinh khối, ammoniac trên
thị trường cao hơn giá than. Trong khi đó, chúng ta chưa có cơ chế,
chính sách về hỗ trợ giá chuyển đổi cho nhà máy thực hiện đồng đốt nhiên
liệu này để các nhà máy mở rộng thử nghiệm. Do đó, các chủ đầu tư kiến
nghị Chính phủ, Bộ Công Thương sớm có lộ trình và các cơ chế, chính sách
cụ thể (về quy hoạch vùng nguyên liệu sinh khối, hỗ trợ tài chính, giá
bán điện) làm cơ sở để các nhà máy nhiệt điện triển khai.
Còn ý kiến của các chủ dự án nhiệt điện đốt than BOT (Nghi
Sơn 2, Vĩnh Tân 1, Duyên Hải 2) cho rằng: Các điều khoản của hợp đồng
mua, bán điện đã được ký kết, khi chuyển đổi nhiên liệu giá thành sản
xuất sẽ cao hơn giá đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán điện. Như vậy,
thời gian còn lại của hợp đồng sẽ thực hiện như thế nào? Phần chi phí
tăng thêm cho chuyển đổi công nghệ, chi phí nhiên liệu chuyển đổi sẽ do
bên nào chịu? v.v…
Kết luận buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị
các chủ đầu tư, chủ sở hữu của nhà máy nhiệt điện than thực hiện nghiêm
Chỉ thị 29 ngày 2/11/2019 của Thủ tướng, đồng thời xây dựng lộ trình
chuyển đổi nhiên liệu, thể hiện quyết tâm bằng cam kết với Chính phủ
Việt Nam qua Bộ Công Thương.
Theo đó, các chủ đầu tư cần chủ động tìm hiểu, đề xuất cơ
chế, chính sách của các quốc gia, các tổ chức quốc tế dựa trên các cam
kết, tuyên bố của họ trên các diễn đàn…
Bộ Công Thương giao Cục Điện lực và Năng lượng Tái tạo chủ
trì với các đơn vị có liên quan tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, chính
sách (dựa vào những cam kết của các tổ chức quốc tế để đưa ra một số cơ
chế chính sách ban đầu).
Nhưng theo nhìn nhận của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt
Nam: Với những thách thức về công nghệ đồng đốt (mới ở giai đoạn thử
nghiệm), chi phí nhiên liệu và chính sách giá điện... như hiện nay, con
đường tiến tới amoniac thay thế nhiên liệu than tại Việt Nam chắc chắn
còn dài. Trước mắt, để đảm bảo an ninh cung cấp điện (tránh khủng hoảng
thiếu nguồn như hiện nay), Chính phủ, các bộ, ngành cần tập trung đẩy
nhanh các phê duyệt để sớm đầu tư các nguồn điện khí (trong Trung tâm
Điện lực Ô Môn), điện khí LNG trong quy hoạch; sớm ban hành các quy định
cần thiết để triển khai điện gió ngoài khơi và điện mặt trời mái nhà./.
BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Nguồn:https://nangluongvietnam.vn/lo-trinh-chuyen-doi-nhien-lieu-cho-cac-nha-may-dien-than-o-viet-nam-con-bao-xa-30976.html