Thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xanh hơn và những cam kết của Chính
phủ Việt Nam tại COP 26 sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tài sản của nền kinh
tế nói chung và ngành điện nói riêng...
Tác động biến đối khí hậu đối với ngành năng lượng
Biến
đổi khí hậu được cho là có tác động đáng kể đến hệ thống năng lượng của
Việt Nam cả về phía cung và cầu điện. Đối với toàn bộ hệ thống năng
lượng, biến đổi khí hậu gây ra những tác động tiêu cực đáng kể đến nhu
cầu điện nhưng lại mang lại hiệu quả tích cực cho thủy điện về mặt sản
xuất điện ở Việt Nam do lượng mưa tăng lên. Tuy nhiên, mức giảm chi phí
xã hội và phát thải của thủy điện nhỏ hơn mức tăng thêm của chi phí xã
hội và phát thải do tác động của biến đổi khí hậu đối với nhu cầu điện,
và đối với hệ thống năng lượng, tác động của biến đổi khí hậu sẽ gây ra
sự gia tăng đáng kể của chi phí xã hội với mức tăng thêm tích lũy là
3.105,3 triệu USD và 6.726,5 triệu USD với lượng phát thải bổ sung tích
lũy lần lượt là 118,9 MtCO2e và 249,7 MtCO2e vào năm 2050 theo các kịch
bản RCP4,5 và RCP8,5.
Biến đổi khí hậu tác động đến cung, cầu nguồn điện. Ảnh minh họa: Công nhân vận hành tại nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn
Về
phía nguồn cung, nghiên cứu của các chuyên gia trên cho thấy sản lượng
thủy điện ở Việt Nam có mối quan hệ đồng biến nói chung với lượng mưa.
Tuy nhiên, phạm vi dự báo về tác động của việc phát điện hàng năm cũng
như hàng tháng là rất rộng và không chắc chắn. Những thay đổi về lượng
mưa và nhiệt độ có thể ảnh hưởng đến khả năng sản xuất năng lượng, hệ
thống truyền tải, hoặc chính cơ sở hạ tầng.
Biến
đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến các nhà máy nhiệt điện. Các thay đổi về
nhiệt độ không khí và nước sẽ ảnh hưởng tới hiệu suất phát điện của nhà
máy nhiệt điện: nhiệt điện không khí cao hơn sẽ làm giảm hiệu suất phát
điện của nhà máy nhiệt điện; nhiệt độ nước tăng có thể gây ảnh hưởng bất
lợi tới hoạt động của các hệ thống làm mát của các nhà máy nhiệt điện.
Các yêu cầu về phát thải khí nhà kính cao hơn tạo ra các TSMK với nhiệt
điện than.
Nước biển dâng và các
thay đổi về tốc độ gió và mây che phủ cũng như tần suất và cường độ xảy
ra các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ tác động trực tiếp tới hạ tầng
ngành năng lượng: lượng mưa và dòng chảy bất thường gây ảnh hưởng đến
khả năng cung ứng và điều tiết kế hoạch sản xuất điện của các nhà máy
thủy điện; gây thiệt hại, hư hỏng đến cơ sở hạ tầng cung điện, gia tăng
chi phí đầu tư mới, cải tạo, sửa chữa và nâng cấp thiết bị, mạng lưới
phân phối điện, các giàn khoan dầu được xây dựng trên biển, hệ thống vận
chuyển dầu và khí, các nhà máy điện chạy khí được xây dựng ven biển
cũng bị ảnh hưởng. Ngành khai thác nhiên liệu hóa thạch sẽ bị ảnh hưởng
bởi tình trạng khí hậu biến đổi và thời tiết cực đoan.
Khai
thác than ở Quảng Ninh và triển vọng khai thác than nâu ở đồng bằng
sông Hồng sẽ càng khó khăn hơn do làm tăng khả năng hao hụt, tổn thất
sản lượng than do tần suất, cường độ mưa bão và lũ lụt gia tăng, tăng
thêm chi phí sản xuất, chi phí xây dựng vận hành, duy tu các hệ thống
khoan, các phương tiện vận chuyển.
Khai
thác dầu khí ở ngoài thềm lục địa, công nghiệp lọc-hóa dầu phải tăng
thêm chi phí vận hành, bảo dưỡng, duy tu máy móc, phương tiện; khó khăn
hơn cho hệ thống vận chuyển dầu và khí từ dàn khoan trên biển đến các
nhà máy hóa-lọc dầu.
Một số quy
định quan trọng về ứng phó với biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu
và chi phí sản xuất nhiên liệu và năng lượng gồm: các tiêu chuẩn chất
lượng nhiên liệu, các tiêu chuẩn hiệu suất; các tiêu chuẩn hiệu suất
năng lượng; các quy định chất lượng không khí; quy định về năng lượng
tái tạo; các tiêu chuẩn và quy định liên quan đến phát thải và công nghệ
áp dụng…
Tài sản mắc kẹt với ngành năng lượng
Thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xanh
hơn và những cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP 26 sẽ có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới tài sản của nền kinh tế nói chung và ngành điện nói riêng.
Các nhà máy nhiệt điện than có nguy cơ lớn nhất rơi vào tình trạng tài
sản mắc kẹt.
Tình trạng này được
định nghĩa là nhà máy có nguy cơ thua lỗ hay mất giá, rơi vào tình trạng
phá sản do phải đóng cửa tổ máy sớm cho phù hợp với năm ngừng hoạt động
nhằm đáp ứng các điều kiện về phát thải khí nhà kính (KNK). Nói một
cách đơn giản, nhà máy nhiệt điện rơi vào tình trạng mắc kẹt khi mà chi
phí vận hành lớn hơn doanh thu đạt được (với điều kiện đáp ứng được các
yêu cầu về khí thải).
Cần
lưu ý là hiện nay hàng loạt quốc gia như Nhật Bản, EU tuyên bố dừng cấp
tín dụng cho điện than. Hiện nay, các khoản vay ưu đãi với lãi suất
thấp cho ngành năng lượng ở Việt Nam đều hướng tới năng lượng tái tạo.
Do vậy, các dự án nhiệt điện than của Việt Nam sẽ không thể được hưởng
lợi từ chi phí vốn thấp như trong quá khứ. Nói cách khác, các dự án xây
mới nhà máy điện than sẽ phải vay vốn với chi phí cao hơn và không thể
hoàn vốn trong ngắn hạn. Đây cũng là yếu tố tạo ra rủi ro về tài sản mắc
kẹt nếu dự án nhiệt điện than buộc phải ngừng hoạt động trước thời gian
dự kiến. ((Nhóm nghiên cứu) |
Đối
với các nhà máy nhiệt điện than, tài sản bị mắc kẹt khi không còn sinh
lời như dự kiến. Về khía cạnh tài chính, về cơ bản việc xác định quy mô
tài sản mắc kẹt chịu tác động chính của chi phí và doanh thu của nhà
máy. Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí hoạt động
này thành nhóm yếu tố chủ quan (thuộc về doanh nghiệp), và nhóm nhóm tố
khách quan (bên ngoài doanh nghiệp).
Đáng
chú ý trong nhóm nhân tố khách quan, các nhà nghiên cứu chỉ ra chi phí
vốn là một nhân tố tác động lớn. Bởi phần lớn vốn đầu tư cho các nhà máy
điện than ở Việt Nam là từ vốn vay. Do vậy, chi phí vốn vay có ảnh
hưởng khá lớn tới hiệu quả hoạt động của các nhà máy. Do lãi vay là yếu
tố cấu thành quan trọng trong giá thành điện sản xuất. Nếu nhà máy phải
dừng hoạt động trước thời hạn cam kết trong dự án vay thì các bên liên
quan (cho vay và đi vay) đều sẽ bị ảnh hưởng. Do trong quá trình lập dự
án và đi vay đều đã tính toán đến thời hạn hoàn vốn và các chi phí liên
quan. Trên thực tế, các dự án BOT trong ngành điện đều có cam kết của
chính quyền về thời gian hoạt động của dự án. Do vậy, sẽ không đơn giản
nếu Chính phủ muốn dừng các nhà máy BOT vì lý do giảm phát thải nhà
kính.
Bên cạnh đó là nhân tố cạnh tranh của các loại hình cung cấp năng lượng khác.
Báo
cáo của Mc Kensey (2022) cho rằng Việt Nam là một trong những quốc gia
chịu ảnh hưởng mạnh của các cam kết quốc tế tiến tới Zero Các bon. Lý do
chính là nhiều nhà máy điện than ở Việt Nam có tuổi đời thấp hơn so với
các nhà máy ở các nước phát triển.
Một
nghiên cứu của Carbon Tracker năm 2019 sử dụng phương pháp so sánh dòng
tiền thuần (NPV) để tính toán nguy cơ mắc kẹt tài sản với điện than ở
các quốc gia. Theo nghiên cứu này, nguy cơ tài sản bị mắc kẹt trong kịch
bản dưới 2°C được định nghĩa là sự khác nhau giữa Giá trị hiện tại ròng
(NPV) của các dòng lưu chuyển tiền mặt trong kịch bản B2DS (ngừng hoạt
động toàn bộ nhà máy điện than vào năm 2040) và NPV của các dòng lưu
chuyển tiền mặt trong kịch bản BAU (chỉ bao gồm những trường hợp ngừng
hoạt động đã được thông báo nêu trong điều kiện thông thường). Tuy
nhiên, báo cáo của Carbon Tracker không thể tính hết thay đổi ngoài khả
năng dự báo có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận điện than như giá cả hàng
hóa, chính sách môi trường, cơ cấu thị trường và chi phí công nghệ.
PGS.TS Vũ Sỹ Cường
Phó Trưởng Bộ môn Phân tích chính sách tài chính (Học viện Tài chính) cùng cộng sự
Nguồn:https://diendandoanhnghiep.vn/nganh-nang-luong-viet-nam-nguy-co-tai-san-mac-ket-voi-bien-doi-khi-hau-243916.html