Nguy cơ "đứt gánh giữa đường" đối với chuỗi dự án khí điện Lô B – Ô Môn (một trong những dự án trọng điểm nhà nước về dầu khí và cấp bách của PVN nhiều năm nay), khi tham chiếu tình hình triển khai các công việc gặp nhiều trở ngại kéo dài, chưa hồi kết của tổ hợp trị giá hơn 10 tỷ USD này.
Trải qua gần 3 thập kỷ từ lúc sơ khởi, siêu dự án do PVN làm nhà điều hành đang đối diện nhiều nguy cơ khó lường.
LTS:
Giữ vai trò đặc biệt quan trọng và chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu
nguồn cung điện quốc gia, nhưng những dự án nguồn điện trọng điểm trong
tay các tập đoàn nhà nước như EVN, PVN lại chậm trễ nhiều năm. Trước nhu
cầu tiêu thụ ngày càng lớn cũng như việc chưa thể huy động các nguồn
điện năng lượng tái tạo mới, tiến độ các dự án này sẽ ảnh hưởng đến đảm
bảo an ninh năng lượng cũng như đáp ứng nhu cầu sử dụng điện trong sản
xuất – sinh hoạt. TheLEADER khởi đăng chuyên đề “Những quả đấm thép
trong ngành điện” nhằm thông tin tới bạn đọc về bức tranh phát triển các
dự án nguồn điện lớn thuộc trách nhiệm đầu tư của các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước.
Bài 9: Kịch bản nào cho chuỗi dự án khí điện Lô B – Ô Môn?
Chuỗi
dự án khí – điện Lô B tại Cần Thơ hướng tới sản lượng khai thác khí
khoảng 5,06 tỷ m3/năm trong giai đoạn ổn định cho khoảng 20 năm.
Chuỗi
dự án gồm các thành phần: Dự án phát triển mỏ Lô B (các bên tham gia
gồm PVN – người điều hành, MOECO - Nhật Bản, PTTEP -Thái Lan và PVEP) có
tổng chi phí khoảng 11 tỷ USD (thời giá 2016).
Phần
thu của Chính phủ trong toàn vòng đời dự án khoảng 21 tỷ USD, của PVN
và PVEP là khoảng 9 tỷ USD, của MOECO và PTTEP khoảng 4 tỷ USD.
Dự
án đường ống Lô B – Ô Môn (PVN – người điều hành và các bên MOECO,
PTTEP, PVGAS) có tổng chi phí khoảng 2,7 tỷ USD. Phần thu của Chính phủ
khoảng 0,8 tỷ USD, của PVN và PVGAS khoảng 2,5 tỷ USD, của MOECO và
PTTEP khoảng 0,6 tỷ USD.
Dự án hạ nguồn gồm 4
nhà máy điện: Ô Môn 1 (660MW, chủ đầu tư EVNGENCO2), Ô Môn 2 (1.050MW,
Marubeni/Vietracimex), Ô Môn 3 và 4 (mỗi nhà máy công suất 1.050MW, chủ
đầu tư EVN).
PVN cho biết, tiến độ có dòng khí
đầu tiên (First Gas - FG) là vào cuối năm 2021 (đã được Thủ tướng phê
duyệt tại quyết định hồi tháng 7/2018 về kế hoạch phát triển mỏ. Tuy
nhiên, suốt thời gian qua, với các vướng mắc khó khăn ở thủ tục đầu tư
của các nhà máy điện hạ nguồn nên không thể triển khai đồng bộ các công
việc trong chuỗi dự án.
Đáng chú ý, theo PVN
(với vai trò điều hành ở khâu thượng và trung nguồn) thì tiến độ đón
dòng khí đầu tiên đã chậm sang cuối năm 2025 và có nguy cơ chậm/khó có
thể triển khai tiếp nếu không giải quyết các vướng mắc chính trong chuỗi
kịp thời hạn trong quý II/2022.
Dự
án khí Lô B – Ô Môn là một trong hai dự án khí lớn nhất tại Việt Nam.
Tổng mức đầu tư của dự án thượng nguồn và dự án đường ống khoảng 10 tỷ
USD và sẽ đóng góp vào ngân sách Nhà nước khoảng 18 tỷ USD.
Trong
giai đoạn bình ổn, sản lượng khai thác khí hàng năm của dự án đạt khoảng
5 tỷ m3, cung cấp nguồn khí thô quan trọng cho các hộ tiêu thụ tại
Trung tâm điện lực Ô Môn và Trung tâm Khí-Điện-Đạm Cà Mau. Việc phát
triển dự án khí Lô B – Ô Môn sẽ cung cấp nguồn khí quan trọng để ổn
định, phát triển khu vực miền Tây Nam Bộ, là động lực phát triển
các ngành công nghiệp địa phương, góp phần đảm bảo an ninh năng
lượng.
Chuỗi dự án khí Lô B bao gồm 2 thành phần là dự án phát
triển mỏ Lô B, 48/95 & 52/97 và dự án đường ống dẫn khí Lô B - Ô
Môn. Hợp đồng chia sản phẩm dầu khí (PSC) Lô B & 48/95 được ký kết
tháng 5/1996, Lô 52/97 ký hồi tháng 10/1999.
Các đối tác tham gia
ban đầu trong các dự án này là Mitsui Oil Exploration (Moeco - Nhật
Bản), Chevron (Mỹ), Tổng công ty Thăm dò dầu khí Việt Nam (PVEP) và Công
ty TNHH PTTEP Kim Long Việt Nam. Đầu năm 2015, sau khi Chevron tuyên bố
rút lui, được sự đồng ý của Thủ tướng, PVN đã mua thành công cổ phần và
quyền điều hành của Chevron tại các lô hợp đồng này cũng như dự án
đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn để chính thức trở thành người điều hành
huỗi dự án.
Cụ thể, PVN tiếp nhận hai công ty thăm dò khai thác
dầu khí là Chevron Vietnam (Block B) Ltd, nắm giữ 42,38% quyền lợi tham
gia Hợp đồng chia sản phẩm (PSC) Lô B & 48/95 và công ty Chevron
Vietnam (Block 52) Ltd nắm giữ 43,40% quyền lợi tham gia tại Hợp đồng
chia sản phẩm Lô 52/97, ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam.
Ngoài
ra, PVN cũng tiếp nhận Công ty Chevron Southwest Vietnam Pipeline Co.
Ltd nắm giữ 28,7% quyền lợi tham gia trong dự án đường ống dẫn khí tự
nhiên khai thác ngoài khơi phía Tây Nam tới các hộ tiêu thụ khí tại Việt
Nam.
Một số khó khăn vướng mắc – điều kiện để đạt được FG vào cuối 2025 cũng được PVN thông tin chi tiết.
Trước
hết, là cơ chế xác định và đảm bảo tính thực thi thực hiện các cam kết
tiêu thụ từ thượng nguồn sang hạ nguồn. Cam kết tiêu thụ khí điện xuyên
suốt và đồng bộ là một điều kiện tiên quyết, sống còn để phát triển các
chuỗi dự án khí điện (được áp dụng tại các dự án khí điện hiện hữu tại
Việt Nam). Việc cam kết tiêu thụ khí ổn đinh, dài hạn sẽ đảm bảo khai
thác tối ưu tài nguyên, đảm bảo hiệu quả đầu tư của các bên trong chuỗi
dự án.
Đặc biệt, các cam kết này cũng là yêu
cầu của các tổ chức ngân hàng khi cho dự án vay vốn. Hiện nay, theo
PVN, do chưa có phê duyệt của cấp thẩm quyền cho nguyên tắc này nên các
chủ đầu tư của các dự án thành phần trong chuỗi dự án chưa thể hoàn tất
các điều khoản thương mại về cam kết mua bán khí/mua bán điện dài hạn.
Được
biết, PVN đã báo cáo Bộ Công thương về khối lượng khí cam kết của các
hợp đồng bán. Tuy nhiên, để các bên ký kết được hợp đồng GSA thì còn cần
Bộ Công thương sửa đổi/ban hành các quy định về vận hành hệ thống điện
và thị trường điện. Lý do là, nếu căn cứ vào các quy định hiện hành thì
các hộ tiêu thụ không có khả năng hoàn thành cam kết mua khí.
Tiếp
theo, là thời điểm đạt được thỏa thuận bán khí, thời điểm tiếp nhận và
tiêu thụ khí của nhiệt điện Ô Môn 2 và 3 vẫn chưa rõ ràng. Bên cạnh yếu
tố tích cực mới đây là chủ trương đầu tư của nhiệt điện Ô Môn 3 đã được
phê duyệt, thì khó khăn vẫn ghi nhận ở phía Ô Môn 2.
Cụ
thể, dù đã được duyệt chủ trương đầu tư nhưng nhiệt điện Ô Môn 2 đang
chậm triển khai, đàm phán thương mại gặp khó do liên danh Marubeni và
Vietracimex có những yêu cầu mà PVN không thể cam kết (đảm bảo cung cấp
đủ khí cho 25 năm vận hành nhà máy, ưu tiên cấp khí…). Đồng thời, nhà
đầu tư chỉ ký kết GSA (hợp đồng cung cấp khí) tại thời điểm đóng tài
chính của dự án, dự kiến sớm nhất mốc thời gian này là khoảng cuối 2023,
thậm chí có thể chậm hơn nhiều.
Điều này, có
thể ảnh hưởng lớn tới hiệu quả đầu tư dự án phát triển mỏ và đường ống,
lượng khí có thể khai thác không đạt như kế hoạch phát triển mỏ được
duyệt (nhiệt điện Ô Môn 2 tiêu thụ 25% tổng lượng khí).
Yếu tố vướng mắc thứ 3 là rủi ro liên quan đến thời hạn chào thầu của các gói thầu EPCI phần thượng nguồn.
Giữ
vai trò quan trọng đối với tiến độ dự án, các gói thầu EPCI đã được gia
hạn thời hạn hồ sơ dự thầu 5 lần để chờ hoàn tất các thủ tục đầu tư của
khâu hạ nguồn. Trong lần khảo sát gần đây, các nhà thầu chỉ đồng ý tiếp
tục gia hạn thời hạn hồ sơ dự thầu đi kèm điều kiện tăng giá thầu.
Theo
PVN, các gói thầu nêu trên bắt buộc phải kịp trao thầu trước 1/7/2022
để hạn chế ảnh hưởng do biến động đột biến của thị trường cũng như giảm
thiểu nguy cơ bỏ thầu của các nhà thầu do chờ đợi quá lâu và chi phí
vượt ngân sách.
Tuy nhiên, do cơ chế xác định
và đảm bảo các bên liên quan thực thi đầy đủ các cam kết tiêu thụ khí từ
thượng nguồn sang hạ nguồn chưa được phê duyệt, nên không thể tiến hành
trao thầu. Trong bối cảnh này, MOECO và PTTEP đã từng kiến nghị Bộ Công
thương và Ủy ban quản lý vốn Nhà nước giải quyết các vướng mắc về cơ
chế để có thể phê duyệt gói thầu trước thời hạn 1/7/2022.
Với
việc không kịp trao thầu trước thời hạn hết hạn hiệu lực hồ sơ thầu
(1/7/2022), chuỗi dự án đã và đang đối diện với các nguy cơ, rủi ro rất
lớn.
Điển hình: Không đạt được tiến độ dòng khí đầu tiên vào cuối
năm 2025; Thực hiện thủ tục đấu thầu mất khoảng 2-3 năm, với biến động
của thị trường cũng như tình hình chính trị thế giới phức tạp hiện nay
thì chắc chắn các gói thầu này sẽ bị tăng chi phí so với giá trị ở mức
hợp lý hiện nay, hiệu quả đầu tư dự án sẽ không đạt.
Khi đó, dự án không những chỉ chậm 2-3 năm mà việc có hay không thể tiếp tục phát triển dự án sẽ rất khó lường.
Giữa
bối cảnh biển khu vực Tây Nam có những diễn biến phức tạp hơn trong
thời gian gần đây, việc sớm triển khai chuỗi dự án này để có các công
trình như những cột mốc trên biển sẽ đóng vai trò quan trọng trong công
tác an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Chuỗi
dự án Lô B – Ô Môn đã lỡ tiến độ nhiều năm và thời điểm hiện tại là
thuận lợi để thúc đẩy tiến độ dự án nhằm có dòng khí đầu tiên vào cuối
năm 2025, chủ động nguồn cung năng lượng cho phát triển kinh tế.
Nhằm
giảm thiểu rủi ro tiếp tục chậm tiến độ đối với chuỗi dự án, PVN đã đề
nghị Thủ tướng một số nội dung liên quan. Điển hình như: Chỉ đạo Bộ Công
thương phê duyệt các khối lượng khí trong các GSA đã được các bên thống
nhất làm cơ sở đưa vào PPA; Ban hành hướng dẫn/sửa đổi các quy định về
thị trường điện canh tranh để có cơ chế đảm bảo cho các nhà máy điện
tiêu thụ hết lượng khí cam kết.
Bộ Công thương
sớm tháo gỡ vướng mắc về nguồn vốn của nhiệt điện Ô Môn 3 (có ý kiến về
đề xuất sử dụng vốn ODA của Chính phủ theo đề nghị của Bộ Kế hoạch và
đầu tư tại công văn ngày 15/4/2022) để EVN có thể đưa dự án vào đồng bộ
tiến độ với tiến độ cấp khí của thượng nguồn.
Trong
trường hợp nhiệt điện Ô Môn 2 không đảm bảo khả năng nhận khí theo tiến
độ cấp khí của thượng nguồn, hoặc không đồng ý với các điều kiện hợp
đồng như EVN/EVNGENCO2 thống nhất với PVN, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đề
nghị cho phép được nghiên cứu đầu tư nhà máy điện mới tại khu vực Cà Mau
để tiêu thụ hết lượng khí dự kiến khai thác từ Lô B nhằm đảm bảo hiệu
quả tổng thể của chuỗi dự án.
Nguyễn Cảnh
Nguồn: https://theleader.vn/kich-ban-nao-cho-chuoi-du-an-khi-dien-lo-b-o-mon-hon-10-ty-usd-1668140528233.htm