Nhu cầu khí đốt tăng cao đang khiến châu Âu phải cạnh tranh nguồn cung với các nước châu Á, điều đó làm tăng giá nhiên liệu hóa thạch và dẫn đến điều mà ông Tim Buckley - Giám đốc tổ chức tài chính khí hậu Climate Energy Finance của thinktank, gọi là “siêu lạm phát”.
Theo bà Kanika Chawla - Tổ chức năng lượng bền vững của Liên Hợp quốc (LHQ), hầu hết các nước châu Á đang ưu tiên an ninh năng lượng, đôi khi hơn các mục tiêu khí hậu đã đề ra. Đối với các quốc gia giàu có như Hàn Quốc hay Nhật Bản, điều này có nghĩa là phải tìm kiếm năng lượng hạt nhân.
“Cách các nước châu Á lựa chọn có thể tác động xấu đến khí hậu, bởi họ có thể giảm gấp đôi năng lượng sạch hoặc quyết định không loại bỏ nhiên liệu hóa thạch ngay lập tức. Chúng ta đang ở một ngã tư thực sự quan trọng” – bà Chawla nói.
Hạ tầng yếu kém
Sri Lanka là một ví dụ điển hình về tình trạng khó khăn mà các quốc gia nghèo phải đối mặt. Các khoản nợ khổng lồ đã ngăn không cho nước này mua năng lượng bằng tín dụng, buộc họ phải cung cấp nhiên liệu cho các lĩnh vực chính dự kiến bị thiếu hụt trong năm tới.
Sri Lanka tự đặt mục tiêu thu được 70% năng lượng từ năng lượng tái tạo vào năm 2030 và đặt mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Nhưng ông Aruna Kulatunga, người đã viết một báo cáo của chính phủ về các mục tiêu năng lượng sạch của Sri Lanka, cho biết: “Nhiều người như ông Murtaza Jafferjee, Giám đốc Viện Advocata của think tank cho rằng, những mục tiêu này mang tính khát vọng hơn là thực tế vì lưới điện hiện tại của Sri Lanka không thể đáp ứng năng lượng tái tạo. Bởi lưới điện chạy bằng năng lượng tái tạo cần phải nhanh và mạnh hơn vì năng lượng từ gió và mặt trời là không ổn định và có khả năng gây căng thẳng cho lưới truyền tải.
Tăng cường điện than
Trung Quốc đặt mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2060, điều này đòi hỏi cắt giảm đáng kể lượng khí thải. Nhưng hạn hán nghiêm trọng và khủng hoảng năng lượng trong nước đã khiến quốc gia này đang ưu tiên giảm thiểu việc cắt giảm các nguồn nhiên liệu bẩn.
Ấn Độ đặt mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 muộn hơn 1 thập kỷ so với Trung Quốc và đứng thứ 3 trong danh sách các quốc gia phát thải toàn cầu hiện nay. Trong những năm tới, Ấn Độ sẽ là nước có nhu cầu năng lượng tăng mạnh hơn, ước tính quốc gia này sẽ cần 223 tỷ USD để đạt được mục tiêu năng lượng sạch vào năm 2030. Giống như Trung Quốc, Ấn Độ đang tìm cách tăng cường sản xuất than để giảm sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu đắt đỏ.
Nhưng quy mô của mục tiêu khí hậu trong tương lai có nghĩa là không quốc gia nào có lựa chọn ngoài việc tăng cường năng lượng sạch. Ông Buckley, người theo dõi chính sách năng lượng của Trung Quốc cho biết, nước này vẫn đang dẫn đầu về năng lượng tái tạo và thoát khỏi sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Ấn Độ cũng đang đầu tư mạnh vào năng lượng tái tạo và đã cam kết sản xuất 50% điện năng từ các nguồn năng lượng sạch vào năm 2030. Ông Christoph Bertram, Viện Nghiên cứu tác động khí hậu Potsdam cho rằng, sản xuất trong nước nhiều hơn không có nghĩa là Trung Quốc và Ấn Độ đốt nhiều than hơn, đó có thể chỉ là sự thay thế than nhập khẩu đắt tiền bằng năng lượng trong nước với giá rẻ. Điều quan trọng đối với các mục tiêu khí hậu toàn cầu là nơi các khoản đầu tư trong tương lai được hướng đến.
Năng lượng hạt nhân trở lại
Cả Nhật Bản và Hàn Quốc, hai trong số các quốc gia phát triển nhất châu Á, đều đang thúc đẩy năng lượng hạt nhân sau cuộc khủng hoảng năng lượng từ châu Âu. Nhật Bản phải tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế bất chấp quan điểm chống hạt nhân có từ sau thảm họa Fukushima năm 2011. Một mùa hè tới sớm hơn dự kiến đã dẫn đến tình trạng thiếu điện, buộc chính phủ Nhật Bản phải công bố kế hoạch tăng tốc kiểm tra an toàn theo quy định để có nhiều lò phản ứng hoạt động hơn.
Nhật Bản đặt mục tiêu hạn chế năng lượng hạt nhân xuống dưới 1/4 năng lượng hỗn hợp, nhưng sự thúc đẩy gần đây cho thấy, năng lượng hạt nhân có thể đóng một vai trò lớn hơn đối với nước này.
Nước láng giềng Hàn Quốc tuy không chịu tác động trực tiếp đến nguồn cung năng lượng vì nước này nhập khẩu khí đốt từ các nước như Qatar, Australia và dầu từ Trung Đông, nhưng có thể chịu tác động gián tiếp khi châu Âu nỗ lực đảm bảo an ninh năng lượng bằng cách nhắm tới những nguồn cung trên, khiến giá cả tăng lên. Giống như Nhật Bản, chính phủ Hàn Quốc đã thúc đẩy sản xuất điện hạt nhân và cho thấy sự miễn cưỡng trong việc giảm mạnh sự phụ thuộc vào than và khí đốt trong nước vì họ muốn thúc đẩy nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng năng lượng ở châu Âu đã khiến giá khí đốt tăng, buộc Indonesia phải giảm trợ cấp tăng cao nhằm giữ giá nhiên liệu và một số biểu giá điện trong tầm kiểm soát. Nhưng theo bà Anissa R. Suharsono thuộc Viện Phát triển bền vững quốc tế, đây là một cuộc cải cách “vội vã” và không giải quyết được thách thức trong việc loại bỏ nhiên liệu hóa thạch của nhà xuất khẩu than lớn nhất thế giới và có mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2060.
Theo số liệu của chính phủ Indonesia, lượng xuất khẩu than của nước này đã tăng gần 1,5 lần trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 6 năm nay, so với năm 2021, để đáp ứng nhu cầu của châu Âu. Indonesia cũng đã sản xuất hơn 80% tổng lượng than sản xuất trong năm ngoái.
Chuyên gia phân tích cấp cao tại Viện nghiên cứu Năng lượng Ember, bà Malgorzata Wiatros-Motyka cho biết, lượng khí thải của ngành sản xuất điện trên thế giới vẫn đang ở mức cao trong khi cần phải giảm nhanh. Các loại nhiên liệu hóa thạch đang đẩy con người rơi vào cuộc khủng hoảng về khí hậu cũng như khủng hoảng năng lượng toàn cầu.
Hà Anh/ Báo điện tử Đại Đoàn Kết
Nguồn: http://daidoanket.vn/khi-dot-va-cuoc-canh-tranh-moi-5698538.html