Hợp tác năng lượng giữa EU và Mỹ đang vấp phải những rào cản cho sự phát
triển với những chuyến tàu vận chuyển khí đốt từ Mỹ có giá quá cao hay
việc ban hành Đạo luật Giảm lạm phát (IRA) của quốc gia này.
Ảnh minh họa/https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/
EU đang ngày càng lệ thuộc vào Mỹ
Tháng
6 vừa qua đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quan hệ năng lượng
xuyên Đại Tây Dương, lần đầu tiên, Liên minh châu Âu mua nhiều khí đốt
tự nhiên từ Mỹ hơn so với từ Nga.
Theo
cách nhìn nhận nào đó, đây là một sự phát triển tích cực cho cả EU và
Mỹ. Washington từ lâu đã muốn người châu Âu giảm sự phụ thuộc vào đường
ống dẫn khí đốt của Nga. Từ những năm 1980, Mỹ đã cố gắng ngăn chặn việc
xây dựng đường ống Brotherhood. Gần đây hơn, Nhà Trắng đã phản đối
đường ống Nord Stream 2 nối Nga và Đức dưới Biển Baltic, trước khi đường
ống này bị đình chỉ sau khi Nga bắt đầu “chiến dịch quân sự đặc biệt”
tại Ukraine.
Về phần mình, các
công ty năng lượng của Mỹ từ lâu đã tìm cách mở rộng thị phần tại thị
trường năng lượng châu Âu rộng lớn và béo bở. Trong khi châu Âu rõ ràng
không muốn bị buộc phải tổ chức lại hoạt động nhập khẩu năng lượng của
mình bởi xung đột ở Ukraine, thì thật may mắn khi có có thể tăng nguồn
cung cấp khí đốt từ một quốc gia thân thiện vào thời điểm khủng hoảng
này.
Tuy
nhiên, EU cũng đang phát hiện ra điều kỳ lạ khi hợp tác với một siêu
cường năng lượng như Mỹ. Không giống hầu hết các quốc gia mạnh về dầu mỏ
khi họ có thể kiểm soát các chính sách sản xuất của mình thông qua các
công ty năng lượng quốc gia, ngành năng lượng của Mỹ có quy mô lớn và
phân tán, với hàng trăm chủ thể khác nhau hoạt động trong một môi trường
cạnh tranh. Mặc dù Tổng thống Joe Biden có thể thúc đẩy các công ty Mỹ
tăng sản lượng, nhưng ông có rất ít quyền kiểm soát trực tiếp đối với
xuất khẩu năng lượng của Mỹ.
Hiện
tại, mối quan tâm chính của EU là đồng minh Mỹ của họ không thể hoặc sẽ
không cung cấp đủ nhiên liệu hóa thạch giá rẻ cho châu Âu. Với mức giá
trần 60 USD/thùng được áp dụng đối với dầu của Nga, dầu và các sản phẩm
tinh chế của Mỹ sẽ càng trở nên quan trọng hơn đối với các nền kinh tế
châu Âu, vì có thể sản lượng của Nga sẽ bị cắt giảm để thích ứng. Nhưng
khi quá trình chuyển đổi năng lượng sạch diễn ra, sự bất hòa sẽ nảy sinh
nếu Mỹ không sẵn lòng hạn chế sản xuất nhiên liệu hóa thạch vì lý do
khí hậu và quốc gia này ưu tiên đáp ứng nhu cầu năng lượng của chính
mình trước khi hỗ trợ các đồng minh bên kia Đại Tây Dương.
Các
chính phủ châu Âu đã báo hiệu sự sẵn sàng với việc loại bỏ dần nhiên
liệu hóa thạch và Nghị viện châu Âu đã thông qua Hiệp ước không phổ biến
nhiên liệu hóa thạch, nhằm ngăn chặn việc thăm dò các mỏ mới và dừng
sản xuất để giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu ở 1,5 độ C.
Không
phải tất cả các nước châu Âu đều từ bỏ sản xuất nhiên liệu hóa thạch.
Ví dụ, Vương quốc Anh, Hà Lan và Đức đều có kế hoạch tiếp tục khai thác
khí đốt ở Biển Bắc để thay thế hàng nhập khẩu của Nga. Nhưng nhìn chung,
châu Âu rõ ràng đang thực hiện một cách tiếp cận khác với siêu cường
nhiên liệu hóa thạch bên kia Đại Tây Dương.
Về
phần mình, Mỹ gần như đã từ bỏ việc hạn chế nguồn cung cấp nhiên liệu
hóa thạch. Đạo luật khí hậu của quốc gia này, được gọi là Đạo luật Giảm
lạm phát (IRA), chỉ được thông qua sau khi loại bỏ các hình phạt nghiêm
trọng cho việc sản xuất năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch và thậm chí
còn xuất hiện một số điều khoản nhỏ để hỗ trợ hoạt động dầu khí mới, bất
chấp những lời hứa trước đó của chính quyền Biden. Những cam kết đó
thất bại do giá khí đốt tăng cao trong năm nay và sự gián đoạn đối với
thị trường dầu mỏ thế giới do cuộc chiến ở Ukraine gây ra. Cách làm của
Mỹ hiện nay là hỗ trợ chung cho tất cả hoạt động sản xuất năng lượng mới
dù là nhiên liệu hóa thạch hay năng lượng tái tạo, thông qua các ưu đãi
thuế và tín dụng. Tương tự, Mỹ không muốn đánh thuế carbon giống như
cách EU làm để giảm nhu cầu đối với nhiên liệu hóa thạch.
Đối mặt với thách thức
Những
lời kêu gọi từ châu Âu về việc giảm giá khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG)
của Mỹ là một trong những biểu hiện của những lo ngại về tương lai của
ngành công nghiệp châu Âu. Một lý do khác là sự chỉ trích về các khoản
trợ cấp xanh trong IRA được thông qua gần đây, mà Ủy ban châu Âu gọi là
“phân biệt đối xử” vì “những tác động bất lợi của nó đối với ngành công
nghiệp của EU”.
Các
biện pháp được đặt dấu hỏi bao gồm việc trợ cấp cho xe điện chỉ áp dụng
cho ô tô được lắp ráp ở Bắc Mỹ sử dụng pin được chế tạo bằng vật liệu
từ Mỹ hoặc một quốc gia mà Mỹ có hiệp định thương mại tự do - đáng chú ý
là không bao gồm EU. Hơn thế nữa, Washington đang gây áp lực buộc các
đối tác xuyên Đại Tây Dương của mình phải cùng họ “rời” khỏi Trung Quốc.
Chẳng hạn như việc Mỹ thúc giục Hà Lan ngừng xuất khẩu thiết bị sản
xuất chip tiên tiến sang Trung Quốc trong bối cảnh chính quyền Biden hạn
chế Bắc Kinh tiếp cận chất bán dẫn.
Châu
Âu hiện phải đối mặt với những thách thức kinh tế bao gồm giá năng
lượng cao; sự sụp đổ thương mại với Nga; thị trường Trung Quốc đóng cửa;
và sự quay trở lại chính sách công nghiệp và phân biệt đối xử thương
mại của Mỹ, một quốc gia có thâm hụt tài khoản vãng lai khổng lồ và mua
nhiều hàng hóa từ châu Âu hơn bất kỳ đối tác thương mại nào khác. Nếu
chỉ một trong những thách thức này phát sinh, châu Âu có thể vượt qua
cơn bão. Vấn đề là tất cả các mối đe dọa này đã xuất hiện cùng một lúc.
Còn
cuộc khủng hoảng năng lượng thì sao? Có vẻ như châu Âu đang trải qua
một mùa đông không tới mức đáng sợ như mọi người dự đoán khi Nga lần đầu
tiên hạn chế nguồn cung khí đốt. Giá khí đốt tự nhiên cho tháng 1/2023
đã giảm xuống còn khoảng 145 euro mỗi megawatt giờ (MWh), từ hơn 300
euro trong mùa hè; giá điện cũng giảm. Và phần lớn nhờ vào 600 tỷ euro
mà các chính phủ châu Âu đã chi để trợ cấp năng lượng, người tiêu dùng
châu Âu sẽ không bị đóng băng trong nhà vào mùa đông này bởi sản lượng
sản xuất của châu Âu phần lớn đã được giữ vững cho đến nay. Trên thực
tế, EU chưa bao giờ sản xuất nhiều hàng hóa hơn hiện nay.
Tin
xấu là cuộc khủng hoảng còn lâu mới kết thúc. Với hơn 100 euro mỗi MWh,
giá khí đốt hiện tại vẫn ở mức cao so với lịch sử: Từ năm 2018 đến
2020, chúng dao động quanh mức 25 euro. Châu Âu đã sử dụng nguồn cung
cấp của Nga để dự trữ khí đốt trong năm nay, nhưng điều đó sẽ không xảy
ra vào năm 2023, vì Nga đã cắt phần lớn nguồn cung cấp khí đốt cho châu
Âu. Đối mặt với chi phí năng lượng cao trong nước và các khoản trợ cấp
hấp dẫn ở Bắc Mỹ, nhiều công ty châu Âu đang quyết định chuyển hướng đầu
tư của họ qua Đại Tây Dương.
Mặc
dù nhiều quốc gia châu Âu phụ thuộc vào khí đốt của Nga như Đức, Ý và
Áo phải hứng chịu ảnh hưởng nặng nhất từ việc giá năng lượng tăng cao,
nhưng điều đáng chú ý là khí đốt mà Đức mua từ Nga không hề rẻ. Trên
thực tế, nó đắt hơn xăng ở Mỹ. Và năng lượng sẵn có của Nga không phải
là lý do duy nhất khiến Đức trở thành một cường quốc công nghiệp. Nhưng
việc mất khí đốt của Nga sẽ khiến ngành công nghiệp Đức trở nên kém cạnh
tranh hơn.
Mỹ
có thể hỗ trợ các đồng minh xuyên Đại Tây Dương của mình bằng cách cung
cấp năng lượng rẻ hơn. Nhưng các lô hàng LNG hiện tại của Mỹ đang được
vận chuyển qua Đại Tây Dương chỉ vì chúng có thể được bán với giá cao
nhất cho người tiêu dùng châu Âu. Các công ty châu Âu chịu trách nhiệm
một phần về giá cao vì các nhà sản xuất LNG chủ yếu bán cho các công ty
trung gian châu Âu như TotalEnergies và Shell. Nhưng ngay cả khi
Washington can thiệp và trợ cấp cái mà nhà kinh tế học người Đức Robert
Habeck gọi là mức giá “khủng” đối với LNG của Mỹ, thì vẫn có khả năng
khí đốt rẻ được vận chuyển đến các nước đang phát triển ở châu Á, mặc dù
châu Âu trả giá cao hơn.
Để
ổn định lâu dài, Mỹ và châu Âu phải đi đến một sự đồng thuận mới về
chính sách năng lượng, khí hậu và công nghiệp. Thách thức lớn hơn sẽ là
vượt qua những lo ngại của châu Âu về IRA và những động thái gần đây của
Mỹ nhằm làm cho ngành năng lượng trong nước trở nên cạnh tranh hơn.
Ngoài việc Washington và Brussels phải hợp tác với nhau để giải quyết
những vấn đề về năng lượng trong ngắn hạn, họ sẽ phải hợp tác về các
giải pháp dài hạn để giảm lượng khí thải carbon và phát triển năng lực
công nghiệp để hoàn thành quá trình chuyển đổi năng lượng xanh. Nếu
không, mối quan hệ đối tác năng lượng mới hình thành từ khủng hoảng của
họ sẽ không bền vững khi xung đột ở Ukraine kết thúc.
Đỗ Khánh
Nguồn: https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/hop-tac-nang-luong-giua-eu-va-my-co-the-se-khong-ben-673667.html