Nồng độ khí mê-tan đạt mức cảnh báo
Hiện
trạng gia tăng phát thải khí nhà kính (KNK) đã làm hành tinh ấm thêm.
Do đó, việc đạt được mục tiêu trung hòa carbon có tầm quan trọng lớn.
Vào hôm 26-10, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) đã công bố dữ liệu mới
nhất về nồng độ của ba loại khí nhà kính chính. Đối với CO2 và N2O, nồng
độ đo được vào năm 2021 lần lượt tăng 149% và 124% so với thời kỳ tiền
công nghiệp. Nguyên nhân là do tình trạng giảm phát thải CO2 tạm thời
trong năm 2020 đã không giúp giảm thiểu mức tăng trưởng của nồng độ KNK ở
mức đáng kể. Vào năm 2020 và 2021, mật độ CO2 trong bầu khí quyển Trái
Đất đạt mức xấp xỉ 2,5 ppm/năm (ppm = một phần triệu).
Mặt
khác, một lần nữa, WMO cảnh báo về nguy cơ gia tăng mật độ khí mê-tan.
Tuy có vẻ ổn định vào đầu những năm 2000, khí mê-tan đã bắt đầu tăng cao
trở lại vào những năm 2010. Đặc biệt, hai năm qua là giai đoạn đánh dấu
một sự tăng tốc chưa từng có: “Mức tăng được ghi nhận vào năm 2020 là
15 ppb (ppb = một phần tỷ), vào năm 2021 là 18 ppb. Đây là hai mốc cao
nhất kể từ khi WMO bắt đầu thống kê”.
Tình
trạng tăng tốc này sẽ gây hiệu ứng bất lợi về mặt khí hậu: Nhiệt độ ấm
hơn và độ ẩm cao sẽ tạo điều kiện cho vi sinh vật yếm khí phát triển
trong đất ẩm và ruộng lúa. Trong tình trạng đó, hiện tượng sẽ tiếp tục,
trừ khi thực hiện hành động để giảm được nhiều lượng khí thải hơn. Trên
thực tế, đây chính là mục tiêu của cam kết Global Methane Pledge, được
đề xuất trong sự kiện COP26. Một chủ đề đáng theo dõi tại COP27!
Thực trạng của những cam kết trong năm 2022: Tiến độ quá hạn chế!
Quyết
định cuối cùng được đưa ra tại COP26 chính là lời kêu gọi các quốc gia
cùng nâng cao tham vọng khí hậu từ nay cho đến cuối năm 2022. Tuy nhiên,
lời kêu gọi đã thu về kết quả rất hạn chế, nếu xét theo danh sách những
cam kết được ký kết trong Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí
hậu. Theo đó, kể từ khi bế mạc COP26, chỉ có một vài quốc gia điều chỉnh
lại những mục tiêu khí hậu của họ (Úc, Brazil, Indonesia và Hàn Quốc),
tăng tham vọng giảm thêm khoảng 0,5 giga tấn khí CO2 tương đương (0,5 Gt
CO2eq) từ nay cho đến năm 2030. Ông Simon Stiell - thư ký điều hành mới
của UNFCCC nhận xét: “Các quốc gia đã đạt được một số tiến bộ trong năm
nay”.
Cụ thể hơn, nếu các quốc
gia thực hiện được tất cả những đóng góp vô điều kiện (hay còn gọi là
“cam kết chắc chắn”, thì lượng phát thải khí nhà kính vẫn sẽ tiếp tục
tăng cho đến năm 2025. Sau đó, sản lượng sẽ ổn định trở lại, đạt mức
thấp hơn một chút so với con số 55 Gt hằng năm. Rồi vào năm 2030, con số
sẽ giảm xuống còn 51 Gt, tức thấp hơn 3% so với năm 2019. Cách phổ biến
để bổ sung cam kết là đáp ứng yêu cầu hỗ trợ từ các quốc gia phía nam.
Rõ
ràng, những lộ trình này đi lệch khỏi quỹ đạo mà thế giới đã đề ra từ
lúc đặt bút ký những cam kết “có chủ đích” trong khuôn khổ Thỏa thuận
Paris về biến đổi khí hậu năm 2015. Thế nhưng, quỹ đạo cũ là lý do mà
chúng ta đã bị đẩy quá xa khỏi mục tiêu giảm 43% lượng khí phát thải
trong giai đoạn từ năm 2019 cho đến năm 2030 – một mục tiêu cần thiết để
giới hạn mức tăng nhiệt độ không quá 1,5°C. Nếu như vậy, vào cuối thế
kỷ 21, nhiệt độ toàn cầu có thể phải tăng 2,4 - 2,6°C. Do đó, ông Simon
Stiell kêu gọi “tăng cường những kế hoạch hành động vì khí hậu và hoàn
thành chúng trong vòng tám năm tới”.
Thực trạng khí thải so với quỹ đạo lý tưởng: Gần như không đồng nhất
Mặt
khác, cách thức thực hiện cam kết thật sự là vấn đề tối quan trọng.
Thật vậy, trong báo cáo mới đây, Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc
(UNEP) đã đưa ra một kịch bản khác biệt: “Nguy cơ gia tăng nhiệt độ toàn
cầu thêm 2,8°C nếu thế giới tiếp tục những chính sách hiện hành”. Trong
kịch bản, ta có thể thấy nhiệt độ sẽ tăng cao hơn nhiều so với trong
kịch bản giả định rằng mọi cam kết đề ra với LHQ đều được tuân thủ. Nói
thẳng ra, báo cáo đưa giả định về nguy cơ không tuân thủ tất cả những
cam kết đã được đề ra.
Không như
báo cáo của UNFCCC, báo cáo của UNEP đề cập rất chi tiết những quỹ đạo
theo từng khu vực và quốc gia. Qua đấy, ta thấy được: Trong số những
nước phát thải cao, đối tượng duy nhất có được lộ trình cam kết cắt giảm
rõ rệt từ nay cho đến năm 2030 là những nước phát triển. Còn những nước
có nền kinh tế mới nổi thì không có điều kiện phù hợp và dài hạn để
tuân thủ những mục tiêu khí hậu cho năm 2030.
Tính
thiếu đồng nhất với quỹ đạo lý tưởng thể hiện rõ nhất qua số liệu lượng
khí thải trên đầu người. Theo báo cáo, trung bình khí thải trên đầu
người đạt 6,3 tấn CO2eq/người (bao gồm cả lượng phát thải ròng do thay
đổi sử dụng đất). Tất cả những nước phát triển và một số nước mới nổi
như Trung Quốc, Brazil và Indonesia, đều ở trên mức trung bình. Mặt
khác, ở Ấn Độ, lượng phát thải bình quân ước tính chỉ đạt 2,4 tấn
CO2eq/người. Còn ở những nước kém phát triển hơn, con số này chỉ nhỉnh
hơn 2 tấn CO2eq/người. Những con số này là một lời nhắc nhở về mức độ
quan trọng của vấn đề công bằng trong ứng phó biến đổi khí hậu, là lời
xác nhận rằng những quốc gia chịu tác động nặng nề nhất từ hiện tượng
nóng lên toàn cầu chính là những quốc gia góp phần ít nhất vào việc tích
tụ KNK trong bầu khí quyển. Đây chắc chắn sẽ là chủ đề trọng tâm của
các cuộc tranh luận ở Sharm el-Sheikh.
Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch năng lượng
Trong
báo cáo “Triển vọng Năng lượng” mới nhất, Cơ quan Năng lượng Quốc tế
(IEA) đã đi sâu vào khía cạnh năng lượng của quá trình chuyển dịch.
Theo
kịch bản cơ sở (baseline), nếu các quốc gia tiếp tục những chính sách
hiện tại, nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch đạt mức đỉnh vào năm
2025. Sau đó, nhu cầu sẽ giảm chậm qua các năm. Đến năm 2050, nhiên liệu
hóa thạch sẽ chỉ chiếm 60% cơ cấu năng lượng của thế giới (vốn đã đạt
80% vào năm 2021). Đây sẽ là lộ trình khả thi nếu thế giới có động lực
đầu tư vào năng lượng tái tạo. Mục tiêu giảm chi phí sản xuất và chi phí
lưu trữ điện sẽ thúc đẩy thêm tiến trình này. Với kịch bản này, nhiệt
độ toàn cầu sẽ tăng thêm 2,5°C vào cuối thế kỷ này.
Trong
khi đó, kịch bản “đạt được mọi cam kết về khí hậu” đòi hỏi các quốc gia
tuân thủ tất cả các cam kết cho năm 2030 và các cam kết trung hòa vào
khoảng năm 2050 (năm 2060 cho Trung Quốc và năm 2070 cho Ấn Độ). Đây sẽ
là lộ trình khả thi nếu thế giới gia tăng đầu tư vào năng lượng phát
thải carbon thấp và lối sử dụng năng lượng hiệu quả. Với kịch bản này,
nhiệt độ toàn cầu sẽ chỉ tăng lên khoảng 1,7°C vào cuối thế kỷ này. Kịch
bản này cũng giả định rằng cuộc khủng hoảng năng lượng do chiến tranh
Nga - Ukraine gây ra sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển dịch, nhất là ở Trung
Quốc và các nền kinh tế mới nổi lớn.
Để
đạt 1,5°C, chúng ta phải đi vào lộ trình “net zero” (phát thải ròng đạt
mức 0) từ năm 2023. Lộ trình này sẽ là một hành động mạnh mẽ hơn và
nhanh hơn nhiều để hạn chế tổng nhu cầu năng lượng và rút ngắn thời gian
triển khai năng lượng tái tạo, nhất là ở những nước đang phát triển.
Tình trạng đói nghèo năng lượng và thiếu an ninh lương thực gia tăng
Cuối
cùng, theo báo cáo của IEA, ta cần xét thêm một vấn đề: Giá năng lượng
leo thang và rủi ro thiếu sản phẩm nông nghiệp do hoàn cảnh chiến tranh
Nga - Ukraine đang gây ảnh hưởng đến người dân. Về khả năng tiếp cận
năng lượng, báo cáo ước tính có 75 triệu người đứng trước nguy cơ mất
khả năng tiếp cận điện năng do thiếu phương tiện tài chính, và 100 triệu
người bị tước mất khả năng nấu ăn bằng bếp hiện đại.
Về
mặt an ninh lương thực, cuộc chiến Nga - Ukraine kết hợp với sự tái
diễn của những cú sốc khí hậu làm tăng giá những loại thực phẩm thiết
yếu, khiến những người nghèo gặp thêm khó khăn trong việc tiếp cận. Theo
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), số người thiếu
dinh dưỡng đã tăng từ khoảng 600 triệu người vào giữa những năm 2010 lên
768 triệu người vào năm 2021. FAO dự báo con số này có thể lên tới 828
triệu người vào năm 2022.
Tình
trạng leo thang kép này thể hiện rõ nhất ở Châu Phi - lục địa đăng cai
COP27. Bối cảnh trên sẽ thúc đẩy tranh luận về sự bất cập trong việc vận
chuyển tài nguyên cho những nước kém phát triển hơn. Nếu chúng ta không
đưa cách cải thiện vấn đề tại COP27, những kịch bản tăng tốc chuyển
dịch năng lượng, nhằm giữ vững mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ toàn
cầu ở dưới 2 °C, sẽ chỉ còn là điều viển vông.
H. Phan
Nguồn:https://petrotimes.vn/the-gioi-truoc-nguy-co-ngheo-doi-nang-luong-670810.html