Định hướng phát triển bền vững kinh tế biển

Kinh tế biển (KTB) không chỉ được định hướng phát triển như một ngành kinh tế mũi nhọn mà còn được chú trọng trong tăng trưởng xanh, phát triển bền vững (PTBV).
 

Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định KTB là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đưa Việt Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Trong đó, đề ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển KTB; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Đồng thời nhấn mạnh đến vấn đề áp dụng những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại nhằm thúc đẩy PTBV KTB.

PTBV KTB là phát triển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.


Việt Nam có lợi thế lớn trong phát triển kinh tế biển


Theo đó, PTBV KTB cần phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, kiểm soát khai thác tài nguyên, phục hồi hệ sinh thái biển, gắn liền với bảo đảm quốc phòng – an ninh và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Bên cạnh đó, cần có nhiệm vụ khẩn trương xây dựng quy hoạch không gian biển quốc gia; hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên biển.

Hơn nữa, ưu tiên phát triển các ngành KTB, nhất là du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác, nuôi trồng và khai thác hải sản xa bờ, công nghiệp ven biển, năng lượng tái tạo và các ngành KTB mới. Đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật, công nghệ trong đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của ngư dân trong quá trình khai thác thủy sản trên các vùng biển. Tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành phát triển đô thị và phát triển các trung tâm KTB mạnh.

Trên thực tế, để PTBV KTB nước ta là phải hoàn thành trên 1.700km đường ven biển từ Quảng Ninh đến Cà Mau, ưu tiên đoạn ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tăng cường bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững các hệ sinh thái, đa dạng sinh học biển, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển; nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên biển. Mở rộng diện tích, thành lập mới các khu vực bảo tồn biển. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng; có biện pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển. Đồng thời ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương. Phấn đấu đến năm 2030, quy mô kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển bằng 65 - 70% GDP cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản đầy đủ, nhất là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục.

Theo đó, để PTBV KTB, Chính phủ và các cơ quan liên quan đã triển khai nhiều đề án, dự án, nhiệm vụ. Cụ thể, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định quan trọng để tổ chức và triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW. Các Bộ, ngành đã xây dựng các đề án, dự án, nhiệm vụ để triển khai Chiến lược PTBV KTB trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, kế hoạch tài chính ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021 - 2025. Hiện có 8 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển đã thành lập Ban chỉ đạo và 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển ban hành Chương trình/Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW và Nghị quyết số 26/NQ-CP.

Trong thời gian tới, để sớm đưa mục tiêu trên vào thực tiễn, cần thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp từ hoàn thiện thể chế, cơ chế kiểm tra đánh giá và phân công, tổ chức thực hiện cụ thể các công việc, nhiệm vụ như: các Bộ, ngành liên quan quản lý 6 ngành kinh tế: du lịch và dịch vụ biển; kinh tế hàng hải; khai thác dầu khí và các tài nguyên, khoáng sản biển khác; nuôi trồng và khai thác hải sản; công nghiệp ven biển; năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới, cần tập trung thực hiện theo các chủ trương được nêu tại Nghị quyết số 36-NQ/TW.

Các Bộ, ngành liên quan khác quan tâm, bố trí nguồn lực đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra. Bao gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính ưu tiên tập trung nguồn vốn và hình thành dòng vốn riêng hoặc một chương trình riêng (tương tự Chương trình biển Đông hải đảo) để triển khai các đề án, dự án, nhiệm vụ quan trọng; ưu tiên trước mắt tập trung bố trí kinh phí cho các dự án điều tra cơ bản biển và hải đảo. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan liên quan xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về tăng cường nguồn lực đầu tư cho công tác điều tra cơ bản, quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo phục vụ PTBV KTB. 

Mỹ Dung (T/H)

https://nangluongsachvietnam.vn/d6/vi-VN/news/Dinh-huong-phat-trien-ben-vung-kinh-te-bien-6-1954-10170